Friday 24 March 2023

Tác động của Thuế tối thiểu toàn cầu và giải pháp duy trì sức hút vốn nước ngoài

 Các Quy tắc chống sói mòn cơ sở thuế toàn cầu (GloBE) áp đặt mức thuế tối thiểu 15% lên các công ty đa quốc gia (MNEs) có doanh thu từ 750 triệu euro trở lên. Mục đích của GloBE là giúp các nước bảo vệ cơ sở thuế của mình trước các hành vi chuyển giá và làm sói mòn cơ sở thuế, giảm thiểu động cơ của MNEs trong việc chuyển lợi nhuận về nước và giảm áp lực cho những nước phải áp dụng các ưu đãi thuế hào phóng nhiều khi là quá mức để thu hút đầu tư nước ngoài.

Ngược lại, GloBE có thể làm giảm tính hữu hiệu của một số ưu đãi thuế được thiết kế làm cho thuế suất hiệu dụng đánh lên MNEs thấp hơn 15%.

Một số nước và khu vực trên thế giới như EU, Anh, Canada, Hàn Quốc... sẽ chính thức áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu ngay từ năm 2024. Singapore thì mới tuyên bố sẽ áp dụng mức thuế này cho các MNEs của Singapore vào hoặc sau ngày 1/1/2025.

Vì nhiều nước, cả phát triển và nhất là các nước đang phát triển, thường dùng ưu đãi thuế như một công cụ để đạt đồng thời nhiều mục đích, chính phủ các nước này sẽ phải xem xét, hóa giải các tác động của GloBE lên chính sách thuế nội địa của mình.

Dù chưa phê chuẩn thỏa thuận áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu nhưng Việt Nam đang có chiều hướng sẽ chấp thuận và thực thi thuế này bởi những lợi ích rõ ràng của nó và xu hướng áp dụng mang tính toàn cầu. Như vậy, Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với vấn đề nêu trên. Tuy nhiên, dù thời gian để chuẩn bị và thực thi không còn nhiều, chúng ta vẫn chưa có kế hoạch hành động cụ thể, ngoài động thái chính là đề xuất thành lập Tổ công tác liên ngành của chính phủ để nghiên cứu các giải pháp liên quan.

Có lẽ hậu quả và do đó cũng là cản trở lớn nhất đối với Việt Nam trong việc chấp thuận và thực thi thuế toàn cầu tối thiểu nằm ở lo ngại về tác động tiêu cực của nó lên quyền đánh thuế của Việt Nam, cũng như các rắc rối pháp lý liên quan đến các ưu đãi thuế đã và đang áp dụng cho các dự án đầu tư nước ngoài hiện hữu hoặc trong tương lai sẽ nảy sinh khi Việt Nam chính thức áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu.

Phần sau đây sẽ thảo luận kỹ hơn về bản chất của thuế tối thiểu toàn cầu và giải pháp xử lý các vấn đề phát sinh liên quan trong bối cảnh của Việt Nam.

Với thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam sẽ không còn tự do áp dụng các ưu đãi thuế, đặc biệt với các cam kết ân hạn thuế trong một khoảng thời gian cụ thể từ thời điểm này trở đi và sau khi chính thức thực thi thuế này (trong một hai năm tới).

Việc bị giới hạn này được cho là sẽ tước đi một công cụ hữu hiệu của Chính phủ trong việc xử lý các khiếm khuyết của thị trường và khuyến khích các dự án đầu tư có hiệu ứng lan tỏa lớn, đầu tư vào lĩnh vực R&D, công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, phát triển nền kinh tế xanh, hay đầu tư để thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế và công nghiệp của Chính phủ... Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, cung cấp các ưu đãi thuế chủ yếu là để giúp Việt Nam tăng cường tính cạnh tranh thu hút và giữ chân dòng vốn ngoại trong cuộc đua khu vực và toàn cầu.

Về vấn đề giới hạn quyền tự chủ trong quyết định mức thuế này, cần lưu ý trước tiên rằng không phải MNEs nào cũng sẽ bị áp mức thuế tối thiểu 15%, mà chỉ là những MNEs có doanh thu hàng năm trên 750 triệu euro ít nhất trong 2 năm của giai đoạn 4 năm trước khi áp dụng thuế tối thiểu. Và dù có là thành viên của MNEs thuộc phạm vi áp dụng thuế tối thiểu thì các tổ chức như thực thể chính phủ, tổ chức quốc tế, tổ chức phi lợi nhuận, và quỹ hưu trí... được loại trừ áp dụng. Tương tự là một số loại hình tổ chức (gồm, ví dụ, nhà đầu tư không thuộc tập đoàn MNE nào) hoặc loại hình thu nhập (ví dụ, thu nhập từ vận tải thủy) cũng sẽ được loại trừ khỏi quy định thuế này. Ngay cả MNEs mà có hoạt động, đầu tư vào ngành, ví dụ, cần nhiều vốn trong lãnh thổ sở tại thì cũng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi thuế tối thiểu.

Song song đó, không phải loại ưu đãi thuế nào cũng bị ảnh hưởng như nhau bởi việc áp dụng thuế tối thiểu. Ảnh hưởng này sẽ tùy thuộc vào thiết kế của các ưu đãi (MNEs đang được hưởng ưu đãi thuế cũng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi thuế tối thiểu nếu chúng đóng góp lớn cho kinh tế bản địa nhờ thỏa mãn các yêu cầu đổi lấy ưu đãi), mức độ đánh thuế chung và lên doanh nghiệp của quốc gia, và loại hình và lĩnh vực kinh doanh cụ thể của MNEs thuộc diện áp dụng, gồm những hoạt động đặc thù của nó trong vùng lãnh thổ sở tại.

Hiểu được về nguyên tắc của các loại trừ trong việc áp dụng thuế tối thiểu đối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hưởng ưu đãi thuế như trên, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu cụ thể và sâu hơn về mặt kỹ thuật để thiết kế các loại ưu đãi thuế nhằm khuyến khích MNEs đầu tư vào Việt Nam mà không vi phạm quy định về thuế tối thiểu toàn cầu.

Hiểu rõ các nguyên tắc và thiết kế các loại ưu đãi thuế thích hợp cũng giúp cho Việt Nam xử lý được vấn đề nổi cộm khác, đó là các rắc rối pháp lý đối với các dự án đầu tư nước ngoài đã ký kết mà trong đó Việt Nam cam kết các ưu đãi thuế trong một thời hạn nhất định.

Cụ thể, đối với các dự án đầu tư đã đàm phán, nếu phía Việt Nam đơn phương tuyên bố áp dụng thuế tối thiểu mà không đàm phán lại hợp đồng, ví dụ các điều khoản về ưu đãi thuế với đối tác nước ngoài thì có thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.

Một trong những giải pháp khắc phục rủi ro này là đàm phán với doanh nghiệp để áp dụng một số công cụ thuế khác như tín dụng thuế có khả năng hoàn trả, hoặc cho phép hoãn trả thuế vào một thời điểm trong tương lai..., với mục đích là để bù đắp cho việc doanh nghiệp sẽ phải trả thuế thu nhập mới (15%), cao hơn so với thỏa thuận trước đây.

Một số động thái về kế toán cũng có tác dụng tương tự, ví dụ như tăng tốc độ khấu hao tài sản hữu hình cũng giúp giảm thiểu tác động của thuế tối thiểu toàn cầu, biến chúng thành công cụ để tiếp tục khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài mới hoặc duy trì được thuế doanh nghiệp hiệu dụng ở mức thấp cho các doanh nghiệp nước ngoài hiện hữu kể cả sau khi Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu.

Trên hết, cần lưu ý rằng ưu đãi thuế chỉ là một trong những công cụ khuyến khích và giữ chân đầu tư nước ngoài. Ngoài đó ra thì còn nhiều yếu tố khác như chi phí và chất lượng lao động, cơ sở hạ tầng, môi trường đầu tư... Với nguồn thu nhà nước được bổ sung thêm từ việc áp dụng thuế tối thiểu có thể cao hơn mức ưu đãi hiện tại cho nhiều doanh nghiệp nước ngoài nói chung, Chính phủ có thể dùng nguồn tiền này để cải thiện và củng cố các yếu tố thu hút đầu tư khác này để xây dựng được một thị trường đầu tư nước ngoài hấp dẫn và bền vững trong các năm tới mà không cần phải tham gia “cuộc đua xuống đáy” nhằm thu hút đầu tư nước ngoài như trước đây, trước khi các nước áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu.

Hàm ý rút ra là, như nói ở phần đầu bài, thuế tối thiểu toàn cầu là một sáng kiến tốt đối với ngay cả các nước đang phát triển vì sẽ giúp khắc phục được vấn đề chuyển giá, xói mòn cơ sở thuế, phải ưu đãi quá mức và không cần thiết cho các doanh nghiệp nước ngoài. Quan trong không kém là việc thực thi thuế này cũng sẽ không ảnh hưởng nhiều đến chủ quyền đánh thuế quốc gia. Do đó, Việt Nam cần nhanh chóng phê chuẩn và thực thi thỏa thuận này, đồng thời có các giải pháp kỹ thuật phù hợp để tiếp tục khuyến khích đầu tư nước ngoài trong những năm tới.  

Wednesday 15 March 2023

Các ngân hàng Việt Nam có sụp đổ giống ở Mỹ vì huy động ngắn hạn lại đem đầu tư dài hạn?

Các vụ sụp đổ mới đây của một số ngân hàng Mỹ đã được một vài đồng chí chuyên gia nội địa liên hệ với Việt Nam và cảnh báo nguy cơ đổ vỡ tương tự, bởi có vài điểm tương đồng.

Điểm tương đồng hay được nói đến là ngân hàng 2 nước đều “thích” huy động ngắn hạn nhưng lại cho vay dài hạn. Cụ thể hơn, các đồng chí chuyên gia nội địa chỉ ra rằng ngân hàng SBV của Mỹ huy động tiền gửi chủ yếu của các startup và đem đầu tư vào trái phiếu chính phủ Mỹ hoặc chứng khoán nợ dài hạn có thu nhập cố định. Tương tự, ở Việt Nam, các đồng chí chuyên gia chỉ ra tiếp, có nhiều ngân hàng cho vay bất động sản nhiều, thậm chí lên đến 70% tổng dư nợ, 50% tổng tài sản v.v...

Cái sai một cách rất ấm ớ của các đồng chí chuyên gia nội địa ở điểm trên là nghĩ rằng đầu tư vào chứng khoán nợ và trái phiếu là đầu tư dài hạn. Đúng là các loại chứng khoán này có thể có kỳ hạn dài hàng nhiều năm, 2, 5, 10, 30 năm nhưng không có nghĩa là đầu tư mua và nắm giữ chúng là phải theo chúng đến hết kỳ hạn dài lê thê như thế. SBV hay bất cứ ngân hàng nào, nhà đầu tư nào, đều luôn có thể bán các loại chứng khoán này bất cứ lúc nào thích/cần, nên thực ra các khoản đầu tư này của họ lại chính là đầu tư ngắn hạn/không kỳ hạn thì đúng hơn.

Cái mà các ngân hàng, nhà đầu tư thường quan tâm là tính thanh khoản và an toàn, nên không phải tự nhiên mà trong danh mục đầu tư của họ có một tỷ trọng lớn là trái phiếu chính phủ hoặc các loại chứng khoán được phát hành bởi các tổ chức có xếp hạng tín nhiệm cao, để cần bán lúc nào thì bán được ngay và với giá tốt nhất có thể (chứ không kiểu như hàng ế, hàng thải).

Còn chuyện bán đi và có lãi hay lỗ lại là chuyện khác nhé. Trái phiếu chính phủ hay chứng khoán nợ này kia đều là hàng hóa, và đương nhiên là giá cả sẽ lên xuống từng phút một, nên chuyện lỗ lãi là chuyện... hên xui.

Và vì thế mới có nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro, hedging, để giảm thiểu rủi ro giá bán thấp hơn giá mua. Có điều là chẳng có bữa trưa nào miễn phí nên muốn hedging thì lại phải tốn (một mớ) tiền và cũng không hoàn toàn thoát được hết mọi rủi ro. Do đó, cũng không phải vô lý khi SBV hay nhiều nhà đầu tư đã chọn không hoặc hedging không đáng kể các khoản đầu tư của mình.

Thật không may cho họ là rủi ro lại xảy ra ngay đối với họ, trong thời điểm và hoàn bất ngờ (so với dự tính của họ), dẫn đến phải/bị đóng cửa, đơn giản thế thôi chứ đâu có liên quan gì đến chuyện huy động ngắn hạn cho vay dài hạn như các đồng chí chuyên gia nội địa tưởng tượng ra.

Cái sai nữa là các đồng chí chuyên gia nội địa lại ví von đầu tư vào trái phiếu chính phủ với đầu tư vào bất động sản dài hạn. Như trên đã nói, người ta đầu tư vào trái phiếu chính phủ là bởi tính thanh khoản và an toàn của nó (Chính phủ không thể nào (để) vỡ nợ, mất khả năng thanh toán trái phiếu của mình). Còn đầu tư vào bất động sản thì đương nhiên ai cũng biết là lúc cần thì không chắc đã bán (thanh khoản) được, hoặc bán được với giá tốt.

Bởi vậy, sẽ là rất ngớ ngẩn khi lập luận rằng các ngân hàng Việt Nam cũng đang mắc sai lầm tương tự của SBV khi đem vốn huy động ngắn hạn đầu tư vào bất động sản dài hạn. Như đã nói, tuy SBV đầu tư vào trái phiếu hay chứng khoán nợ nhưng đó không phải là tài sản bất động như... bất động sản mà các ngân hàng Việt Nam ưa thích.

Cái sai thứ ba là các đồng chí chuyên gia nội địa dường như chỉ nhìn từ tỷ lệ cho vay bất động sản lên đến 50% tổng tài sản hay 70% tổng dư nợ của một ngân hàng để phán rằng ngân hàng Việt Nam đang dùng quá mức vốn huy động ngắn hạn cho vay dài hạn mà không cẩn trọng chí ít là đưa ra các số liệu chứng mình rằng (phần lớn) các ngân hàng này đang vi phạm ít nhất một chỉ số là hạn mức vốn huy động ngắn hạn dùng cho vay dài hạn mà Ngân hàng Nhà nước đã quy định. Rất có thể là tuy cho vay bất động sản nhiều như vậy nhưng nguồn vốn cho vay này là nguồn vốn dài hạn và, do đó, các ngân hàng này đã không vi phạm quy định này (đơn giản là nếu vi phạm thường xuyên và lâu dài thì chắc NHNN đã không để yên).

Đúng là phát mệt với các bố chuyên gia nhà ta!

Wednesday 8 March 2023

Vinfast – Báo tây cũng vớ vẩn

Dạo này Vinfast cũng năng xuất hiện trên báo/đài tây, từ Reuters đến Bloomberg rồi là CNBC v.v... Có điều, sự xuất hiện này, theo chủ ý của Vinfast hay ở thế thụ động, nếu không kiểm soát thì sẽ có tác dụng ngược, gây hại cho Vinfast hơn là làm lợi cho nó. Đây là điều tớ tâm sự thật với Vinfast, với đồng chí Vượng, vì mong muốn để nó tốt hơn.

Mới ngày 2/3, như tớ đề cập trong post cùng ngày, Reuters đưa tin rằng “VinFast has been certified for a subsidy of up to $7,500 per vehicle under President Joe Biden's incentive program payable to the finance company, according to the U.S. Internal Revenue Service (IRS) website.”

https://www.reuters.com/technology/vinfast-delivers-first-45-cars-us-market-2023-03-02/

Tin này cũng được báo chí trong nước khẳng định, ví dụ như trong bài về phỏng vấn đồng chí chuyên gia Trần Đình Thiên mà tớ đã lôi ra phang mới đây: “Chính phủ Mỹ vừa thông qua khoản tài trợ thuế lên tới 7.500 USD/xe cho ô tô VinFast. Rõ ràng, chính phủ các nước đang rất quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực phát triển bền vững như VinFast...”

https://cafef.vn/ts-tran-dinh-thien-nhung-doanh-nghiep-nhu-vinfast-la-nen-tang-tot-de-viet-nam-khang-dinh-vi-the-20230303104318434.chn

Lúc tớ đọc cái tin này, tớ thật sự không hiểu chuyện gì đang xảy ra, làm cách nào mà Vinfast lại tài tình “chạy chính sách” này được, vì tớ cũng biết láng máng về điều kiện được hưởng khoản tín dụng này.

Thế nhưng cái tin về Mỹ tài trợ thuế lên tới 7.500 USD nói trên lại bị phủ nhận bởi CNBC trong bài ra ngày hôm nay, 8/3: “Xe Vinfast hiện tại cũng KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG tín dụng thuế 7.500 USD ở Mỹ vì chúng không được làm tại Mỹ, mà là tại Việt Nam, là điều sẽ ảnh hưởng đến việc bán xe của nó tại Mỹ”.

https://www.cnbc.com/2023/03/08/vietnam-ev-maker-vinfast-us-auto-market.html

Hôm 2/3, lúc đọc tin Reuters về khoản tài trợ 7.500 USD này, tớ tin tắp lự, bởi nó là báo tây, không nhẽ lại viết láo. Dẫu vậy, tớ vẫn cẩn thận vào trang web của IRS, Mỹ, để xác nhận. Thì quả thật là Vinfast xuất hiện trong danh sách “Những nhà sản xuất xe THƯƠNG MẠI sạch” mà sản phẩm của họ được hưởng “tín dụng cho xe THƯƠNG MẠI sạch” lên tới 45.000 USD.

https://www.irs.gov/credits-deductions/manufacturers-for-qualified-commercial-clean-vehicle-credit

Thấy trong website của IRS có tên Vinfast vậy rồi thì đương nhiên là đã tin lại càng tin. Nên hôm nay, lúc đọc tin của CNBC nói trên về chuyện xe Vinfast không được hưởng tín dụng thuế 7.500 USD tớ rất lấy làm lạ. Tuy đều là báo tây nhưng chắc chắn phải có một báo sai.

Xem kỹ lại trang web của IRS, ở mục “Credits for new clean vehicles purchased in 2023 or after” (dịch: Tín dụng cho các loại xe sạch mới, được mua trong năm 2023 hay sau đó), phần “Index to Manufacturers” (Danh sách các nhà sản xuất có xe được hưởng tín dụng này) thì lại không thấy có tên Vinfast.

https://www.irs.gov/credits-deductions/manufacturers-and-models-for-new-qualified-clean-vehicles-purchased-in-2023-or-after

Bối rối một lúc, tớ (buộc phải) hiểu danh sách của IRS mà Vinfast có tên là danh sách nhà sản xuất XE THƯƠNG MẠI (commercial vehicles), còn danh sách mà không có tên Vinfast là danh sách nhà sản xuất XE KHÁCH (passenger vehicles). Chiểu theo danh sách thứ hai, không có tên Vinfast, thì đúng là xe Vinfast vẫn CHƯA/KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG tín dụng thuế 7.500 USD, đúng như CNBC đưa tin.

Như vậy cũng có nghĩa là Reuters đã đưa tin giả, tin thất thiệt – theo ngôn ngữ của các đồng chí tuyên ráo Việt Nam. Có lẽ tại phóng viên Reuters (người Việt), cũng hời hợt như tớ, chỉ mới nhìn thấy tên Vinfast trong một danh sách của IRS là (đưa) tin luôn rằng xe Vinfast đã được hưởng tín dụng thuế 7.500 USD.

(Lưu ý, đến đây thì tớ vẫn chưa hiểu tại sao Vinfast lại xuất hiện trong danh sách nhà sản xuất xe thương mại của IRS. Bởi đơn giản là tớ chưa thấy Vinfast tuyên bố đã/sẽ sản xuất và bán xe thương mại ở Mỹ. Hay tớ sai/không được cập nhật về chuyện này?).

Từ sự “đá nhau” về thông tin nói trên, điều rút ra là Vinfast chắc chắn biết được tin mà báo chí cả trong và ngoài nước đăng tải ngày 2/3 về chuyện xe của nó được hưởng tín dụng thuế 7.500 USD là tin đểu nhưng nó đã không làm gì, không lên tiếng cải chính. Sự thực này sẽ làm cho không ít người nghi ngờ rằng thậm chí đây là chủ đích của Vinfast.

Thế nhưng khi đọc bản tin CNBC, kết hợp với chuyện bản tin của Reuters không sử dụng cụm từ quen thuộc “theo Vinfast” khi khẳng định về việc xe Vinfast được hưởng tín dụng thuế, tớ cảm nhận được rằng lỗi đưa tin đểu là hoàn toàn của Reuters, và Vinfast là nạn nhân (không miễn cưỡng).

Lời khuyên của tớ cho Vinfast, như nói ở đầu bài, là làm truyền thông thì không chỉ biết tung tin (giả), mà còn phải biết quản lý tin liên quan đến mình, trong trường hợp này chính là tin của Reuters và lẽ ra cần phải lên tiếng đính chính ngay, dù mình không có chủ ý đưa tin như vậy. Khi đã thấy tin giả về mình, nhất là những tin quan trọng nhưng dễ kiểm chứng như vậy, mà không nói năng gì để trục lợi thì sớm muộn cũng sẽ bị lộ và hậu quả sẽ lớn hơn những gì sự trục lợi mang lại.

Một lời khuyên khác cho Vinfast là, đọc bài của CNBC, tớ thấy ái ngại cho Vinfast, đâm ra “quay xe” sang thương nó, bởi giọng điệu của bài báo khá tiêu cực đối với Vinfast. Nếu tớ là đồng chí Thủy, CEO, tớ sẽ từ chối trả lời phỏng vấn của CNBC. Vì nội dung trả lời phỏng vấn đã không tạo được một hiệu quả tích cực nào cho hình ảnh của Vinfast (kể cả chuyện đồng chí Thủy nói về nhu cầu to lớn của xe điện trên thế giới), mà còn, ngược lại, vạch ra sự bế tắc, tương lai ảm đạm của Vinfast ở thị trường Mỹ (ví dụ đoạn nói về chất lượng, đoạn thanh minh về chuyện IPO...).

Nói cách khác, thêm một lần nữa, Vinfast cần xem lại chiến lược truyền thông, kiểm soát tin tức của mình. Không chỉ không nên nói dại (đưa/dùng tin giả), mà nhiều lúc nói dai, nói nhiều cũng không phải là điều hay.

Tớ rất vui lòng nếu Vinfast thuê tớ làm tư vấn truyền thông để tránh những cú hở sườn như kiểu này hehe.

Friday 3 March 2023

Đồng chí Vượng Vin đã đáp lời!

Tối qua, tớ vừa post bài trước về Vinfast, về chuyên gia được một lúc thì báo chí đăng ngay “tâm thư” của đồng chí Vượng Vin, cứ như thể đồng chí ấy đã biết lắng nghe và tiếp thu tâm nguyện của tớ hehe. Thương đồng chí ấy quá, phải tích cực làm việc tối muộn để phản hồi.

https://cafef.vn/chu-tich-pham-nhat-vuong-gui-tam-thu-toi-nhan-vien-vingroup-vinfast-la-du-an-kinh-doanh-nhung-duoc-lap-ra-voi-mot-su-menh-cao-ca-20230303204326996.chn

Tâm thư của Vượng có mấy điểm đáng chú ý. Thứ nhất, tuy vẫn cố gắng không tuyệt vọng gán thương hiệu Vinfast với niềm tự hào của người Việt Nam, nhưng tâm thư đã không chỉ ra, không đổ lỗi một khó khăn nào trong số 3 khó khăn của Vinfast do sự KHÔNG ỦNG HỘ của “cả dân tộc”.

Những khó khăn này gồm: Xuất phát điểm rất thấp, chuẩn mực hướng tới lại rất cao, và nguồn vốn cần đầu tư lớn. Đối phó với những khó khăn này, Vượng chỉ ra có nhiều việc cần làm ngay liên quan đến tối ưu chất lượng sản phẩm. Đọc kỹ lại toàn bộ tâm thư, tuy thấy lủng củng, kiểu đang nói cái này chưa hết, chưa rõ ý lại nhảy sang cái khác, nhưng cũng thấy rõ những việc cần làm ngay mà Vượng chỉ ra chỉ là những việc nội bộ Vingroup phải làm, chứ không phải là trách cứ hay kêu gọi sự hỗ trợ cả tinh thần lẫn vật chất của cả dân tộc hay của Nhà nước, Chính phủ như mấy đồng chí chuyên gia nói hôm trước.  

Tớ rất khen sự sòng phẳng này. Chuyện nào ra chuyện ấy. Dự án tâm huyết là của mình, mình thích thì cứ làm thôi, khó khăn thì tìm cách khắc phục, và quan trọng là biết khó khăn nằm ở đâu (trong trường hợp này là nằm ở nội bộ Vingroup). Đừng đao to búa nhớn, lôi kéo cả dân tộc vào, mượn những ông kẹ kiểu nhà nước kiến tạo để khóc mướn cho Vin như mấy đồng chí chuyên gia này kia.  

Thứ hai, về những việc cần làm ngay, Vượng chỉ ra mấy đầu công việc, mà tất nhiên là chủ thể thi hành là người của Vinfast chứ không phải là “cả dân tộc”. Đó là chấn chỉnh vấn đề xe nhiều lỗi; nhân viên phải biết lắng nghe ý kiến khách hàng và nhanh chóng cải thiện sản phẩm, dịch vụ; đảm bảo giá trị thực sự của Vinfast – bảo hành chu đáo 10 năm...

Tớ cũng rất khen sự sòng phẳng này. Biết nhận ra điểm yếu của mình và dũng cảm, cầu thị, chân thành cam kết nỗ lực khắc phục chính là một trong những yếu tố để Vingroup/fast còn thiếu để lấy được lòng tin yêu, ủng hộ hết mình của “chúng ta”, chứ không phải là cách hành xử gian dối, bất nhất, côn đồ, mafia mà tớ nêu trong post trước.

Lại Vinfast, lại chuyên gia!

Sau mấy bài về TS. Nguyễn Sĩ Dũng và ý tưởng hỗ trợ Vinfast của đồng chí ấy, tớ nghĩ thế nào cũng sẽ có một số đồng chí chuyên gia khác lên tiếng ủng hộ, bảo vệ Vinfast.

Quả là thế, và đến hôm nay thì có thêm đồng chí TS. Trần Đình Thiên hô hào “chúng ta” phải ủng hộ mạnh mẽ về vật chất lẫn tinh thần (cho Vinfast), thậm chí chỉ đích danh Nhà nước và Chính phủ phải đóng vai trò định hướng, dẫn dắt (sự ủng hộ này):

“VinFast là doanh nghiệp Việt, đang nỗ lực khẳng định năng lực và vị thế Việt Nam, không có lý gì chúng ta lại không quan tâm như vậy. Chúng ta càng cần phải quan tâm tới VinFast bằng sự ủng hộ mạnh mẽ cả về vật chất lẫn theo tinh thần. Mà trước tiên, đóng vai trò định hướng, dẫn dắt phải là hành động thực tiễn của Nhà nước, của Chính phủ.”

 (https://cafef.vn/ts-tran-dinh-thien-nhung-doanh-nghiep-nhu-vinfast-la-nen-tang-tot-de-viet-nam-khang-dinh-vi-the-20230303104318434.chn )

Đồng chí Thiên yêu thích và tự hào quá Vinfast ơi, như tớ, thì cứ tự mình ủng hộ nó cả về vật chất lẫn tinh thần thôi, chứ đừng vơ “chúng ta” vào, nghe... tội lắm.

Muốn hô hào thiên hạ ủng hộ, giúp đỡ một ai đó thì trước tiên phải xem người đó có đáng được ủng hộ, giúp đỡ không. Nếu nói Vinfast “đang nỗ lực khẳng định năng lực và vị thế Việt Nam” để làm lý do kêu gọi ủng hộ, giúp đỡ thì nó vừa chưa đúng, vừa chưa đủ.

Chưa đúng vì sản xuất và xuất khẩu ô tô (điện) là cuộc chơi và toan tính của riêng Vingroup/fast/Vượng, chứ nó không phải là kết quả của việc Vingroup/fast/Vượng muốn và “nỗ lực khẳng định năng lực và vị thế Việt Nam” như mỹ danh mà đồng chí Thiên khoác cho nó.

Nếu dùng kiểu ngụy biện, đao to búa lớn rằng đây là chủ trương lớn của đảng và nhà nước, thông qua Vinfast, thì hãy đặt câu hỏi tại sao trước đó đồng chí hay những nhà ái quốc tương tự không đau đáu, lên tiếng hô hào kêu gọi ủng hộ, giúp đỡ những doanh nghiệp ô tô thuần Việt chân chính như Vinaxuki, muốn tự sản xuất ô tô Made in Vietnam đúng nghĩa, chứ không chỉ nhập và lắp ráp là chủ yếu, đến thiết kế cũng đi thuê như Vinfast? Hay họ quá thấp cổ bé họng, không mang lại lợi lộc gì nên... quên đi?

Chưa đủ vì kể cả có lý do chính đáng, đáng được ủng hộ, giúp đỡ thì cần phải có những phẩm chất, cần đáp ứng những tiêu chí khác. Một trong những phẩm chất, tiêu chí đó là sự đàng hoàng, minh bạch, và cầu thị v.v..., cho xứng với một doanh nghiệp lớn “gánh” cho cả năng lực và vị thế của Việt Nam như các đồng chí đã và đang hô hào.

Vingroup/fast đã quá nổi (tai) tiếng về những hành vi trấn áp người tiêu dùng. Bản thân tớ khi viết các bài về Vinfast cũng đã được một số người nhắc nhở về nguy cơ bị “dập” bởi đội quân chuyên nghiệp của Vingroup/fast. Và quả thật, một trong các bài viết về Vinfast của tớ trên blog đã có sự “bất thường” đủ cho thấy đã có sự can thiệp.

Một doanh nghiệp đàng hoàng, chính trực sẽ không có những hành vi côn đồ, mafia như vậy. Còn tất nhiên nếu đã có những hành vi như vậy thì dù có tốt cỡ thế nào ở những khía cạnh khác thì không thể nào đòi hỏi phải có sự ủng hộ, giúp đỡ hết mình của “chúng ta” được, có chăng chỉ là của bọn có đặc quyền đặc lợi liên quan đến nó, có lợi ích với nó mà thôi.

Vinfast đã đủ gian dối khi tung ra những thông tin không trung thực, trước sau bất nhất. Muốn ví dụ minh họa thì có ngay chuyện nó rêu rao đã có các giấy phép liên quan ở Mỹ hay được hãng này, hãng kia nhận bảo hiểm, nhận tài trợ... mà thực tế là chưa như tớ đã chỉ ra trước đây.

Nhân tiện, xin cập nhật rằng Vinfast, cho đến ngày 2/3/2023, VẪN CHƯA ĐƯỢC cơ quan chức năng về an toàn giao thông của Mỹ (NHTSA) cấp chứng nhận/xếp hạng an toàn giao thông. Đây là thông tin từ Reuters nên chắc không phải là tin láo (https://www.reuters.com/technology/vinfast-delivers-first-45-cars-us-market-2023-03-02/ ). (Ờ thế mà không hiểu sao xe Vinfast vẫn chạy ra đường ở Mỹ được nhỉ?).

Cũng bản tin Reuters trên còn có những thông tin về sự bất nhất, về bản chất chính là sự lừa dối, của Vinfast, ví dụ như Vinfast đã phải đối mặt với sự giận dữ, bực tức của những người đặt hàng lúc đầu khi biết VF8 trong đợt giao hàng đầu tiên có phạm vi di chuyển thấp hơn so với được công bố lúc bán hàng. Và Vinfast cũng bỏ đi option về việc thuê pin là kế hoạch mà nó quảng cáo là giúp giảm chi phí sở hữu.

Thử đặt mình vào những người từng bị Vingroup/fast trấn áp, lừa dối, cho ăn bánh vẽ, bị ảnh hưởng về vật chất như vậy thì sẽ thấy, sẽ hiểu tại sao trong từ “chúng ta” của đồng chí Thiên chỉ có một bộ phận là thấy tự hào quá Vinfast ơi, luôn ủng hộ mạnh mẽ Vinfast (bằng mồm, chứ bảo mua xe Vinfast đi thì chưa chắc)!

Và cũng rất mong đồng chí Thiên hay những chuyên gia tương tự hãy bỏ tiền túi mua xe Vinfast để ủng hộ nó về vật chất, chứ đừng đòi nhà nước bỏ tiền thuế của dân ra để trợ cấp cho nó, tội dân lắm!

Thursday 2 March 2023

Thôi đừng trông ngóng!

Như trong entry trước, “Nhà nước sẽ in tiền cứu bất động sản?”, tớ có hướng nghĩ rằng ngân hàng thương mại và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đều sẽ giả vờ thực hiện 2 gói cho vay bất động sản (gói 110 nghìn tỷ cho xây dựng dự án nhà ở xã hội do Bộ Xây dựng đề xuất, và gói 120 nghìn tỷ do ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất ưu đãi).

Cập nhật thông tin mới nhất thì Bộ Xây dựng đã “dự kiến tạm ngừng đề xuất” gói 110 nghìn tỷ đồng, và “thống nhất với NHNN” sẽ thực hiện gói 120 nghìn tỷ đồng, vì “do đây là gói có sẵn, có thể thực hiện được ngay” (https://cafef.vn/vi-sao-bo-xay-dung-ngung-de-xuat-goi-tin-dung-110000-ti-dong-20230302173553318.chn ).

Sự “tạm ngừng đề xuất” và sự “thống nhất” nói trên cho thấy hai điều. Thứ nhất, Bộ Xây dựng đúng là vì sức ép, vì trách nhiệm phải nghĩ ra cái gì đó để làm theo chức năng nên đã nặn ra “sáng kiến” 110 nghìn tỷ mà không thèm biết là có làm được (ngay) hay không (hoặc có biết nhưng cứ nhắm mắt đề xuất cho có, cho tròn vai).

Thứ hai, sự rút lại gói 110 nghìn tỷ đồng càng khẳng định sẽ không có gói giải cứu bất động sản thực chất nào, đáng kể nào sẽ được thực hiện, kể cả gói 120 nghìn tỷ. Tất cả các động thái liên quan vừa qua cho đến nay đều chủ yếu chỉ là giả vờ, làm màu, cho có.

Từ đây suy ra tiếp là doanh nghiệp bất động sản khôn ra thì đừng kêu ca, phàn nàn nữa mà hãy tìm mọi cách khác khả dĩ (ngoài tín dụng ngân hàng) để tự cứu mình trước khi quá muộn. 

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).