Các Quy tắc chống sói mòn cơ sở thuế toàn cầu (GloBE) áp đặt mức thuế tối thiểu 15% lên các công ty đa quốc gia (MNEs) có doanh thu từ 750 triệu euro trở lên. Mục đích của GloBE là giúp các nước bảo vệ cơ sở thuế của mình trước các hành vi chuyển giá và làm sói mòn cơ sở thuế, giảm thiểu động cơ của MNEs trong việc chuyển lợi nhuận về nước và giảm áp lực cho những nước phải áp dụng các ưu đãi thuế hào phóng nhiều khi là quá mức để thu hút đầu tư nước ngoài.
Ngược lại, GloBE
có thể làm giảm tính hữu hiệu của một số ưu đãi thuế được thiết kế làm cho thuế
suất hiệu dụng đánh lên MNEs thấp hơn 15%.
Một số nước và
khu vực trên thế giới như EU, Anh, Canada, Hàn Quốc... sẽ chính thức áp dụng thuế
tối thiểu toàn cầu ngay từ năm 2024. Singapore thì mới tuyên bố sẽ áp dụng mức
thuế này cho các MNEs của Singapore vào hoặc sau ngày 1/1/2025.
Vì nhiều nước, cả
phát triển và nhất là các nước đang phát triển, thường dùng ưu đãi thuế như một
công cụ để đạt đồng thời nhiều mục đích, chính phủ các nước này sẽ phải xem
xét, hóa giải các tác động của GloBE lên chính sách thuế nội địa của mình.
Dù chưa phê chuẩn
thỏa thuận áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu nhưng Việt Nam đang có chiều hướng sẽ
chấp thuận và thực thi thuế này bởi những lợi ích rõ ràng của nó và xu hướng áp
dụng mang tính toàn cầu. Như vậy, Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với vấn đề nêu
trên. Tuy nhiên, dù thời gian để chuẩn bị và thực thi không còn nhiều, chúng ta
vẫn chưa có kế hoạch hành động cụ thể, ngoài động thái chính là đề xuất thành lập
Tổ công tác liên ngành của chính phủ để nghiên cứu các giải pháp liên quan.
Có lẽ hậu quả và
do đó cũng là cản trở lớn nhất đối với Việt Nam trong việc chấp thuận và thực
thi thuế toàn cầu tối thiểu nằm ở lo ngại về tác động tiêu cực của nó lên quyền
đánh thuế của Việt Nam, cũng như các rắc rối pháp lý liên quan đến các ưu đãi
thuế đã và đang áp dụng cho các dự án đầu tư nước ngoài hiện hữu hoặc trong
tương lai sẽ nảy sinh khi Việt Nam chính thức áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu.
Phần sau đây sẽ
thảo luận kỹ hơn về bản chất của thuế tối thiểu toàn cầu và giải pháp xử lý các
vấn đề phát sinh liên quan trong bối cảnh của Việt Nam.
Với thuế tối thiểu
toàn cầu, Việt Nam sẽ không còn tự do áp dụng các ưu đãi thuế, đặc biệt với các
cam kết ân hạn thuế trong một khoảng thời gian cụ thể từ thời điểm này trở đi
và sau khi chính thức thực thi thuế này (trong một hai năm tới).
Việc bị giới hạn
này được cho là sẽ tước đi một công cụ hữu hiệu của Chính phủ trong việc xử lý
các khiếm khuyết của thị trường và khuyến khích các dự án đầu tư có hiệu ứng
lan tỏa lớn, đầu tư vào lĩnh vực R&D, công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, phát
triển nền kinh tế xanh, hay đầu tư để thực hiện các chiến lược phát triển kinh
tế và công nghiệp của Chính phủ... Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, cung cấp
các ưu đãi thuế chủ yếu là để giúp Việt Nam tăng cường tính cạnh tranh thu hút
và giữ chân dòng vốn ngoại trong cuộc đua khu vực và toàn cầu.
Về vấn đề giới hạn
quyền tự chủ trong quyết định mức thuế này, cần lưu ý trước tiên rằng không phải
MNEs nào cũng sẽ bị áp mức thuế tối thiểu 15%, mà chỉ là những MNEs có doanh
thu hàng năm trên 750 triệu euro ít nhất trong 2 năm của giai đoạn 4 năm trước khi
áp dụng thuế tối thiểu. Và dù có là thành viên của MNEs thuộc phạm vi áp dụng
thuế tối thiểu thì các tổ chức như thực thể chính phủ, tổ chức quốc tế, tổ chức
phi lợi nhuận, và quỹ hưu trí... được loại trừ áp dụng. Tương tự là một số loại
hình tổ chức (gồm, ví dụ, nhà đầu tư không thuộc tập đoàn MNE nào) hoặc loại
hình thu nhập (ví dụ, thu nhập từ vận tải thủy) cũng sẽ được loại trừ khỏi quy
định thuế này. Ngay cả MNEs mà có hoạt động, đầu tư vào ngành, ví dụ, cần nhiều
vốn trong lãnh thổ sở tại thì cũng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi thuế tối thiểu.
Song song đó,
không phải loại ưu đãi thuế nào cũng bị ảnh hưởng như nhau bởi việc áp dụng thuế
tối thiểu. Ảnh hưởng này sẽ tùy thuộc vào thiết kế của các ưu đãi (MNEs đang được
hưởng ưu đãi thuế cũng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi thuế tối thiểu nếu chúng đóng góp
lớn cho kinh tế bản địa nhờ thỏa mãn các yêu cầu đổi lấy ưu đãi), mức độ đánh thuế
chung và lên doanh nghiệp của quốc gia, và loại hình và lĩnh vực kinh doanh cụ
thể của MNEs thuộc diện áp dụng, gồm những hoạt động đặc thù của nó trong vùng
lãnh thổ sở tại.
Hiểu được về nguyên
tắc của các loại trừ trong việc áp dụng thuế tối thiểu đối doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài hưởng ưu đãi thuế như trên, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu cụ
thể và sâu hơn về mặt kỹ thuật để thiết kế các loại ưu đãi thuế nhằm khuyến
khích MNEs đầu tư vào Việt Nam mà không vi phạm quy định về thuế tối thiểu toàn
cầu.
Hiểu rõ các
nguyên tắc và thiết kế các loại ưu đãi thuế thích hợp cũng giúp cho Việt Nam xử
lý được vấn đề nổi cộm khác, đó là các rắc rối pháp lý đối với các dự án đầu tư
nước ngoài đã ký kết mà trong đó Việt Nam cam kết các ưu đãi thuế trong một thời
hạn nhất định.
Cụ thể, đối với
các dự án đầu tư đã đàm phán, nếu phía Việt Nam đơn phương tuyên bố áp dụng thuế
tối thiểu mà không đàm phán lại hợp đồng, ví dụ các điều khoản về ưu đãi thuế với
đối tác nước ngoài thì có thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
Một trong những
giải pháp khắc phục rủi ro này là đàm phán với doanh nghiệp để áp dụng một số
công cụ thuế khác như tín dụng thuế có khả năng hoàn trả, hoặc cho phép hoãn trả
thuế vào một thời điểm trong tương lai..., với mục đích là để bù đắp cho việc
doanh nghiệp sẽ phải trả thuế thu nhập mới (15%), cao hơn so với thỏa thuận trước
đây.
Một số động thái
về kế toán cũng có tác dụng tương tự, ví dụ như tăng tốc độ khấu hao tài sản hữu
hình cũng giúp giảm thiểu tác động của thuế tối thiểu toàn cầu, biến chúng
thành công cụ để tiếp tục khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài mới hoặc duy
trì được thuế doanh nghiệp hiệu dụng ở mức thấp cho các doanh nghiệp nước ngoài
hiện hữu kể cả sau khi Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu.
Trên hết, cần lưu
ý rằng ưu đãi thuế chỉ là một trong những công cụ khuyến khích và giữ chân đầu
tư nước ngoài. Ngoài đó ra thì còn nhiều yếu tố khác như chi phí và chất lượng
lao động, cơ sở hạ tầng, môi trường đầu tư... Với nguồn thu nhà nước được bổ
sung thêm từ việc áp dụng thuế tối thiểu có thể cao hơn mức ưu đãi hiện tại cho
nhiều doanh nghiệp nước ngoài nói chung, Chính phủ có thể dùng nguồn tiền này để
cải thiện và củng cố các yếu tố thu hút đầu tư khác này để xây dựng được một thị
trường đầu tư nước ngoài hấp dẫn và bền vững trong các năm tới mà không cần phải
tham gia “cuộc đua xuống đáy” nhằm thu hút đầu tư nước ngoài như trước đây, trước
khi các nước áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu.