Tuesday 23 November 2021

Giao dịch bất động sản phải thông qua sàn – vì sao? (Bài đăng trên KTSG, 22/11/2021)

https://thesaigontimes.vn/giao-dich-bat-dong-san-phai-thong-qua-san-vi-sao/

Đề cương Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) của Bộ Xây dựng có quy định bắt buộc các chủ đầu tư dự án bất động sản (BĐS) phải thực hiện bán, chuyển nhượng, cho thuê mua, cho thuê nhà ở, công trình xây dựng thông qua sàn giao dịch (đến 80% số lượng sản phẩm).

Một quy định tương tự đã từng hiện diện trong Luật Kinh doanh bất động sản 2006 để rồi bị bãi bỏ trong Luật Kinh doanh bất động sản 2014.

Sàn giao dịch bất động sản của ai?

Để hiểu nguồn cơn của việc hết đưa vào, đưa ra, rồi lại đưa vào Luật Kinh doanh bất động sản điều khoản bắt buộc nói trên thì có lẽ cần phải hiểu trước tiên sàn giao dịch bất động sản mà đề cương luật đề cập là của ai, do ai điều hành, kiểm soát.

Rõ ràng nó không phải là 1.600 sàn giao dịch bất động sản đủ loại, đủ kiểu hiện nay, hoàn toàn thuộc sở hữu tư nhân, mà Bộ Xây dựng đã thống kê (1). Bởi theo bộ này thì hiện có nhiều vấn nạn liên quan đến việc thành lập và hoạt động của các sàn loại này.

Do đó, có khả năng trong tương lai sẽ có một vài nghị định của Chính phủ nhằm thành lập các sàn bất động sản thuộc sở hữu nhà nước và do nhà nước quản lý. Khả năng này được củng cố thêm khi Bộ Xây dựng đề cập rằng: “...Pháp luật hiện hành chưa có quy định về hệ thống mạng lưới sàn giao dịch bất động sản do nhà nước trực tiếp quản lý (1).

Cùng với “phong trào” thành lập (hoặc đang đề xuất thành lập) sàn giao dịch do Nhà nước trực tiếp quản lý (và sở hữu) cho một số loại hàng hóa khác, như sàn giao dịch nợ xấu, hay sàn giao dịch trái phiếu doanh nghiệp, thì sẽ là không mấy ngạc nhiên khi thấy nối tiếp việc thông qua Luật Kinh doanh bất động sản sửa đổi sẽ nhanh chóng có một nghị định quy định việc thành lập (hệ thống mạng lưới) sàn giao dịch bất động sản do nhà nước trực tiếp quản lý (và sở hữu).

“Kiện toàn” các sàn tư nhân

Bất động sản không phải là một hàng hóa đặc thù, kém phổ thông như nợ xấu nên sàn giao dịch bất động sản đã tồn tại từ lâu, và tất nhiên là thuộc tư nhân, ít “được” nhà nước trực tiếp quản lý. Bởi vậy, cho dù sau này Nhà nước có cho ra đời các sàn giao dịch do Nhà nước trực tiếp quản lý thì Nhà nước cũng không thể lấy đó làm lý do để dẹp bỏ mọi sàn giao dịch tư nhân. Do đó, để nâng cao vị thế chi phối của các sàn nhà nước, sẽ cần phải có động thái pháp lý co hẹp hoạt động của các sàn tư nhân. Điều này sẽ được thực hiện thông qua đề xuất quy định xiết chặt các điều kiện để thành lập và hoạt động của các sàn tư nhân (1).

Trong lúc chờ đợi sự ra đời của các sàn giao dịch bất động sản của Nhà nước thì việc “kiện toàn” các sàn tư nhân với các điều kiện ngặt nghèo sao cho chỉ có một số lượng ít hơn nhiều các sàn tư nhân có thể ra đời và hoạt động cũng là một điều nằm trong dự tính của nhà làm luật, bởi vì rõ ràng việc quản lý, điều khiển theo “định hướng” một số lượng ít hơn các sàn, ví dụ một vài chục, sẽ là dễ dàng hơn nhiều so với quản lý 1.600 sàn như hiện nay.

Liệu có tốt hơn?

Các động thái trù tính trên một phần cũng xuất phát từ việc Bộ Xây dựng “bắt bệnh” rằng các sàn bất động sản tư nhân hiện nay chính là nguồn gốc của các vấn nạn như “ôm hàng”, “thổi giá” ăn chênh lệch, gây lũng đoạn thị trường. Trong khi đó, việc không quy định bắt buộc giao dịch phải thông qua sàn giao dịch bất động sản đã tạo cơ sở cho việc hình thành những dự án ma, các vụ việc lừa đảo từ chủ đầu tư không tuân thủ quy định phátp luật. Nhưng hậu quả có vẻ nghiêm trọng hơn là Nhà nước “gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí không quản lý được thông tin về thị trường bất động sản đúng với những gì đang diễn ra; tình trạng thất thu thuế, thất thu ngân sách cho Nhà nước”. Đồng thời, việc không bắt buộc giao dịch bất động sản phải đưa lên sàn – là một trong những nơi phải báo cáo về các giao dịch lớn, giao dịch đáng ngờ theo Luật Phòng chống rửa tiền – đã gây ra những khó khăn trong công tác thu thập thông tin, số liệu về các giao dịch trên thị trường bất động sản, không phù hợp với luật này... (1)

Như vậy, có thể liên hệ những vấn đề trên để đưa ra một cái nhìn tổng quát rằng Bộ Xây dựng, Chính phủ thực ra chỉ muốn, chỉ nhằm đạt được lợi ích, thuận lợi cho chính họ, theo đúng nguyên tắc “không quản được thì cấm”.

Những “lợi ích” mà doanh nghiệp và người dân có thể được hưởng, theo Bộ Xây dựng, từ việc “kiện toàn” các sàn giao dịch và buộc chủ đầu tư đưa sản phẩm lên sàn giao dịch như người tiêu dùng có một kênh tham khảo thông tin và một tổ chức chính thống để thẩm định, thẩm tra sản phẩm... chẳng qua cũng chỉ là để cho có vẻ “hài hòa” về lợi ích hơn mà thôi. Bởi đơn giản nếu chỉ vì mục đích này thì tại sao Bộ Xây dựng không quy định các chủ đầu tư phải cung cấp thông tin sản phẩm và giao dịch trực tiếp cho Bộ/Sở/Phòng Xây dựng để nếu người tiêu dùng muốn tra thông tin thì sẽ ra ngay, tương tự như tra thông tin về quy hoạch sử dụng đất đai, thay vì cứ phải qua sàn?   

Tóm lại, việc “kiện toàn” các sàn giao dịch hiện tại, khả năng thành lập các sàn giao dịch Nhà nước, và việc bắt buộc các chủ đầu tư phải đưa sản phẩm lên sàn giao dịch là một ý đồ xuyên suốt nhằm kiểm soát tối đa và “gặt hái”, khai thác triệt để thị trường bất động sản cả nước thông qua kiểm soát và điều khiển các sàn giao dịch bất động sản với số lượng không còn nhiều sau “kiện toàn”, và càng thuận lợi hơn nếu có sự ra đời của các sàn giao dịch Nhà nước.

Tuy nhiên, ý đồ này có thành hiện thực hay không và với kết quả tốt, theo mong muốn hay không thì lại là chuyện khác. Kinh nghiệm “xây dựng chủ nghĩa xã hội” mãi chưa xong nhiều chục năm qua cho thấy ngành nào, lĩnh vực nào Nhà nước càng tìm cách độc quyền, thâu tóm, kiểm soát và chi phối, nhất là qua những doanh nghiệp hay cánh tay nối dài của Nhà nước, mà không thực chất vì quyền lợi của người dân và doanh nghiệp thì sớm muộn sẽ phải chứng kiến sự thất bại và cải cách, mở cửa sau đó.

----           

(1) https://phaply.net.vn/bo-xay-dung-de-xuat-sua-luat-ngan-chan-thoi-gia-bat-dong-san-a253512.html


Sunday 21 November 2021

Lan man về tài sản ảo (Bài đăng trên KTSG, 21/11/2021, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/lan-man-ve-tai-san-ao/

Gầy đây, thông qua công việc mới là xây dựng khuôn khổ quản lý rủi ro và phê duyệt tín dụng, tôi có dịp tiếp xúc và thẩm định nhiều công ty kinh doanh, cho vay, cầm cố, giám hộ các loại tài sản ảo (virtual assets), là các loại tiền mã hóa, từ bitcoin đến ethereum và hàng trăm đồng tiền các loại khác như Shiba Inu... ở khắp thế giới. Có ở bên trong mới biết đây là cả một thế giới rộng lớn và đang phát triển mạnh mẽ từng giờ, từng ngày, và rất... béo bở!

Một công ty loại này có trụ sở ở New York, mới mở chi nhánh ở Singapore và London gần đây. Hồi cuối tháng 9, tổng dư nợ cho vay các loại tiền mã hóa của họ tính theo đô la Mỹ mới chỉ là hơn 11 tỷ đô la Mỹ, với biên độ chênh lệch lãi suất cho vay và huy động khoảng trên 2 điểm %, với tổng số nhân viên khoảng 140 người ở các châu lục. Đến thời điểm hiện tại, sau chưa đầy hai tháng, tổng dư nợ đã tăng trên 16 tỷ đô la. Tính trên biên độ chênh lệch lãi suất 2 điểm % thì doanh thu sơ bộ đã đến cả triệu đô la/ngày và dăm bảy ngàn đô la/nhân viên/ngày.     

Đấy mới chỉ là mảng cho vay, chưa kể đến doanh thu từ các mảng kinh doanh khác như trading (bản thân công ty cũng có một nền tảng trading các loại tiền ảo với đội ngũ trader chuyên nghiệp), môi giới, cầm cố và giám hộ tài sản (cũng là các loại tiền mã hóa).

Công ty đang đẩy mạnh tuyển dụng thêm hàng trăm người tại các châu lục để đáp ứng nhu cầu kinh doanh tiền ảo 24 giờ/7 ngày/tuần ở khắp thế giới mà một mình trụ sở chính ở New York không thể kham nổi. Cho đến hiện tại, phần lớn hoạt động của công ty đều diễn ra trực tuyến, nhân viên vẫn làm việc từ xa đến hơn một năm nay.

Sự tăng trưởng dốc ngược như vậy đã tạo điều kiện cho công ty đãi ngộ nhân viên rất tốt qua các chế độ phúc lợi, lương, thưởng... trội hơn hẳn các công ty địa phương, và đủ hấp dẫn để lôi kéo nhân viên từ cả các tổ chức tài chính hàng đầu như Goldman Sachs, JPMorgan, và Morgan Stanley ở New York, Singapore và London về làm việc cho họ.

Điều cũng đáng nói là chính sách hoạt động của công ty rất minh bạch, tự nguyện tuân thủ hoàn toàn các quy định pháp luật ở những nơi, những nước nó có hoạt động kinh doanh. Nhân viên được tăng cường các khóa đào tạo về phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo qua mạng và các quy chế hoạt động tuân thủ khác (compliance).

Xét về bản chất, hoạt động kinh doanh của công ty không khác gì các công ty kinh doanh hàng hóa khác như dầu mỏ, kim loại, chứng khoán và phái sinh, và các công ty tài chính cầm đồ, cho vay tiêu dùng tín chấp..., với khác biệt chỉ là loại tài sản được mang ra kinh doanh mà thôi. Chính vì vậy, nhân viên trong công ty này hay những đối thủ/đối tác không hiếm khi có xuất thân là các trader từ các công ty kinh doanh hàng hóa và công ty tài chính hay ngân hàng thương mại thông thường.  

Nói lan man như vậy để cho thấy những nước nào đi đầu, hoan nghênh, chủ động và tích cực đón nhận những startup, những công ty kinh doanh tài sản ảo như Singapore thì sẽ gặt hái được nhiều lợi ích cho quốc gia. Lợi ích này không chỉ đến dưới dạng công ăn việc làm với thu nhập cao cho công dân và nguồn thuế và chi tiêu thu được từ công ty và nhân viên. Hơn thế, những nước đi đầu này còn xây dựng được thành công hình ảnh là một trung tâm tài chính cực kỳ sôi động, hiệu quả, và minh bạch, tuân thủ các quy chế phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố của quốc tế, ngày càng trở nên thỏi nam châm hấp dẫn dòng tiền đầu tư nước ngoài đổ vào đây.

Tất nhiên, không phải nước nào cũng có một cái nhìn xa, thoáng đạt và cởi mở về việc kinh doanh các tài sản ảo như Singapore, Hong Kong. Trung Quốc và Việt Nam là một số trong đó. Nhưng đằng sau lập trường chính sách “nói không” với tài sản ảo, tiền mã hóa như của Việt Nam không hiếm khi là lý do đơn giản rằng nhà quản lý thực ra không hiểu rõ bản chất tài sản ảo, đánh đồng mọi loại tiền mã hóa (và rủi ro đi kèm) với “tiền” do mấy cái nền tảng tiền ảo lừa đảo nở rộ trong thời gian qua ở Việt Nam và nhiều nước. Khi đã không hiểu rõ bản chất, lợi ích và rủi ro, lại phải đương đầu với hàng loạt vụ lừa đảo thì phản ứng chính sách thường thấy (và có thể hiểu được, thông cảm được) là... cấm luôn “cho nó lành”! Cũng bởi vậy mà cơ quan quản lý chức năng cho đến tận gần đây vẫn không công nhận các loại tiền mã hóa, tiền ảo và cấm dùng tiền mã hóa/ảo làm phương tiện thanh toán.

Lý do này có vẻ đúng với Việt Nam hơn. Một trong những biểu hiện của việc không, chưa hiểu đúng bản chất và lợi ích cũng như rủi ro gắn với tiền mã hóa là việc nhà quản lý đã từng lúng túng, nhầm lẫn về khái niệm cơ bản của tiền điện tử, tiền di động theo kiểu “là tiền nhưng không phải là tiền mà lại là tiền” (1).

Tất nhiên, còn một lý do khác khá “thâm sâu” mà những nước như Trung Quốc quyết liệt chống đối tiền ảo suốt từ năm 2013. Đó là vì họ từ lâu nay đã có ý đồ muốn loại bỏ khỏi cuộc chơi mọi đối thủ cạnh tranh cho đồng tiền ảo riêng của mình (tiền số ngân hàng trung ương) ra đời và độc quyền trong thế giới tiền ảo trong lãnh địa quốc gia.

Nhưng lý do trên xem ra không đúng với Việt Nam. Chỉ gần đây Chính phủ mới yêu cầu Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, xây dựng và thí điểm sử dụng tiền ảo (2). Bộ Tài chính cũng chỉ thành lập Tổ nghiên cứu về tài sản ảo, tiền ảo cách đây không lâu. Những điều này cho thấy thái độ và lập trường với tiền ảo, tài sản ảo của Việt Nam cho đến tận gần đây vẫn chủ yếu được hình thành trên cơ sở nghi ngại, lo lắng mà chưa thấy được những lợi ích, xu hướng phát triển tất yếu của chúng.

Lập trường trên của Việt Nam không chỉ làm chúng ta chậm chễ, bỏ lỡ cơ hội gặt hái sự tăng trưởng bùng nổ của tiền ảo trong thời gian qua như những nước trong khu vực cụ thể là Singapore và Hong Kong đã và đang được hưởng. Điều quan trọng không kém là sự chậm chễ leo lên chuyến tàu mang tên tiền ảo đã làm giấc mơ biến TP.HCM thành một trung tâm tài chính khu vực và quốc tế, cạnh tranh được với Singapore và Hong Kong một ngày không xa thành... thêm xa ngái!

----

(1) https://www.thesaigontimes.vn/td/296826/Roi-ram-tien-di-dong-tien-dien-tu.html/#286881   

(2) https://laodong.vn/kinh-te/ngan-hang-nha-nuoc-se-thi-diem-su-dung-tien-ao-cong-nghe-blockchain-925918.ldo

Friday 19 November 2021

Đưa trái phiếu doanh nghiệp lên sàn: khó khả thi (Bài đăng trên KTSG, 19/11/2021)

https://thesaigontimes.vn/dua-trai-phieu-doanh-nghiep-len-san-kho-kha-thi/

Bộ Tài chính đang dự thảo thông tư về sàn giao dịch dành cho trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phát hành riêng lẻ. Theo đó, thông qua việc thành lập một sàn tập trung để giao dịch TPDN riêng lẻ, nhà quản lý nhắm mục đích giúp thị trường TPDN tăng mức độ thanh khoản, minh bạch và giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư hơn.

Quy định này là mới hoàn toàn so với hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà còn với thế giới. Nhưng điều đáng nói là, vì những lý do như nói dưới đây, quy định về bắt buộc đưa TPDN lên sàn giao dịch như của Việt Nam sẽ nhiều khả năng trở nên bất khả thi.

Trên thế giới, nhìn chung, TPDN nói chung được mua bán, trao đổi trên thị trường OTC (thị trường phi tập trung, chủ yếu thông qua các nhà môi giới trái phiếu, gồm các ngân hàng đầu tư, quỹ phòng hộ và cả các trader chăm giao dịch) thay vì được niêm yết để trao đổi trên sàn giao dịch tập trung. Hơn nữa, rất nhiều trong số các giao dịch liên quan đến TPDN được mua bán trên sàn giao dịch lại được thực hiện qua các thị trường OTC (1).

Có một số lý do giải thích tại sao TPDN chủ yếu được giao dịch, trao đổi qua thị trường OTC chứ không phải trên sàn giao dịch (do nhà nước tổ chức). Thứ nhất, thường thì số lượng (loại) TPDN sẽ nhiều hơn rất nhiều so với cổ phiếu doanh nghiệp (2). Ví dụ, hãng GE chỉ có một cổ phiếu nhưng có đến cả nghìn trái phiếu do GE phát hành với lợi suất, kỳ hạn và thậm chí cả đồng tiền phát hành khác nhau. Ở Mỹ, ước tính có khoảng 5.000 loại cổ phiếu được giao dịch trên các sàn tập trung, nhưng lại có đến hàng trăm ngàn TPDN – một con số quá lớn để có thể đưa lên các sàn giao dịch.                             

Ở Việt Nam, tình hình cũng (sẽ) không khác biệt nhiều. T              rên cả 2 sàn chứng khoán hiện nay có 742 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch cổ phiếu. Vậy mà đã có thời gian kéo dài nhiều tháng để xảy ra tình trạng ách tắc trên sàn HOSE. Tuy tình hình hiện nay đã được cải thiện, nhưng việc đưa toàn bộ TPDN, dù là phát hành riêng lẻ, của từng đó doanh nghiệp niêm yết (và sẽ nhiều hơn nữa trong tương lai) với đủ loại kỳ hạn, lợi suất, đồng tiền phát hành và có điều khoản mua lại hay không... chắc chắn sẽ gây “ngộp thở” cho bất cứ sàn giao dịch nào ở Việt Nam, vượt quá khả năng điều hành, theo dõi, giám sát, xử lý... của cơ quan quản lý, như được quy định chi tiết trong dự thảo hiện tại với nhiều đầu công việc cụ thể đối với từng loại TPDN của từng doanh nghiệp. Nói cách khác, tính đa dạng về loại và nhiều về số lượng làm cho việc quản lý tập trung giao dịch TPDN ở Việt Nam khó thành hiện thực, khó thoát khỏi xu hướng chung trên thế giới.

Lý do thứ hai để TPDN được giao dịch chủ yếu trên thị trường OTC là tần suất giao dịch. Giao dịch TPDN thường có tần suất nhỏ hơn nhiều so với cổ phiếu. Thường thì doanh số và tần suất giao dịch TPDN sẽ tăng cao trong một vài ngày sau khi được phát hành để rồi sau đó sẽ sụt giảm mạnh. Có những TPDN không được giao dịch trong nhiều tháng, thậm chí hàng năm liền vì không có nhu cầu mua bán phát sinh (một phần bởi thiếu tính hấp dẫn do bị xếp hạng tín dụng thấp, hay có tính phức tạp cao...). Tình trạng giao dịch thất thường, giật cục này cũng làm khó cho việc duy trì và điều hành sàn giao dịch dành cho TPDN.              

Như vậy, có thể thấy thị trường TPDN là một thị trường bán lẻ khá khác biệt với thị trường chứng khoán, và phụ thuộc chủ yếu vào các nhà đầu tư tổ chức (institutional investor). Nhà đầu tư nhỏ lẻ (retail investor) vẫn có sự hiện diện trên thị trường bán lẻ TPDN nhưng số lượng chắc chắn không có nhiều. Minh chứng là chỉ có 1,4% hộ gia đình Mỹ nắm giữ trực tiếp trái phiếu các loại. Số liệu này cho thấy các nhà đầu tư tổ chức mới là người nắm giữ đại bộ phận trái phiếu các loại, gồm cả trái phiếu Chính phủ và TPDN.

Dẫu vậy, thị trường trái phiếu nói chung và TPDN nói riêng đang từng bước chuyển mình nhờ điện tử hóa các giao dịch, tương tự như xu hướng xảy ra với chứng khoán. Nhiều trader trái phiếu đã cố gắng chuyển các giao dịch trên thị trường thứ cấp sang các nền tảng giao dịch và sàn giao dịch điện tử để cải thiện thanh khoản.

Các nền tảng điện tử này thường là nền tảng độc quyền (tư nhân) cho phép các nhà đầu tư thấy được giá chào mua-bán trái phiếu mà giới broker/dealer (môi giới/người giao dịch) đang nắm giữ. Phổ biến nhất trong số này là nền tảng đa môi giới, cho phép nhà đầu tư cùng lúc tiếp cận được các lời mời chào mua/bán của nhiều nhà môi giới, người giao dịch và những thành viên thị trường khác như các nhà đầu tư tổ chức. MarketAxess là một nền tảng như vậy (và xin nhấn mạnh là nó mang tính độc lập, thuộc sở hữu tư nhân), chiếm 13% tổng số các giao dịch của tất cả các loại TPDN ở Mỹ.

Nhưng nhìn chung, xu hướng đưa giao dịch trái phiếu lên nền tảng/sàn điện tử chỉ diễn ra từ từ, còn phần lớn trái phiếu nói chung vẫn đang và sẽ tiếp tục được thực hiện qua thị trường OTC, và do đó vẫn còn đó sự thiếu minh bạch và thanh khoản kém trên thị trường thứ cấp này nếu so sánh nó với thị trường/sàn chứng khoán.

Kết luận lại, do quy mô, tính chất, và đặc tính riêng của TPDN khác so với cổ phiếu nên tình trạng thiếu minh bạch và thanh khoản kém là điều tất yếu tồn tại trên thị trường TPDN. Mọi nỗ lực đưa thị trường TPDN vào vòng kiểm soát của nhà nước như được thể hiện thông qua dự thảo thông tư bằng việc đưa các giao dịch TPDN lên sàn giao dịch (tập trung, của nhà nước) sẽ là không hoặc có kết quả rất hạn chế. Thay vào đó, hãy khuyến khích và tạo điều kiện cho sự ra đời của các sàn/nền tảng giao dịch điện tử tư nhân để cải thiện phần nào tính minh bạch và khả năng thanh khoản cho các TPDN ở Việt Nam.     

----- 

(1) https://www.investopedia.com/ask/answers/09/bond-over-the-counter.asp#citation-4

(2) https://www.thirdway.org/report/the-bond-market-how-it-works-or-how-it-doesnt

Thursday 11 November 2021

Rối với đề xuất! (Bài đăng trên KTSG, 11/11/2021)

https://thesaigontimes.vn/roi-voi-de-xuat/

Đại dịch Covid-19 cùng với hậu quả nghiêm trọng để lại cho nền kinh tế đã dẫn đến nhiều giải pháp và đề xuất phục hồi và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Có điều, không ít trong số này mang tính hình thức mà thiếu tính thực tiễn, khả thi.

Chẳng hạn, gần đây có kiến nghị Chính phủ phải bình ổn giá xăng dầu để ổn định kinh tế vĩ mô, làm nền tảng triển khai các gói kích thích kinh tế sao cho vừa ổn định kinh tế vĩ mô, vừa kiểm soát được lạm phát.

Cơ sở cho kiến nghị này là chuỗi quan hệ từ giá xăng dầu gia tăng dẫn đến lạm phát tăng mạnh, gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô, làm tăng lãi suất, tác động tiêu cực đến sản xuất kinh doanh, đóng băng thị trường bất động sản và chứng khoán... Kiểu quan hệ dây chuyền này được cho là đã xảy ra vào thời kỳ khủng hoảng, rối ren ở Việt Nam năm 2008.

Thiếu sót trong lập luận trên là giá xăng dầu chỉ là một trong nhiều yếu tố có thể gây ra lạm phát. Ở đây xin nhấn mạnh chữ có thể. Bởi, thực tế cho thấy trong nhiều thời kỳ, ở nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới (và thậm chí ngay ở Việt Nam), giá xăng dầu tăng vọt vì một nguyên nhân nào đó không nhất thiết dẫn đến lạm phát, nếu không muốn nói ngược lại là thiểu phát khi người tiêu dùng phải thắt chặt chi tiêu để đối phó với áp lực giá cả gia tăng.

Trên thực tế, cần thừa nhận rằng có mối quan hệ nhân quả giữa giá dầu và lạm phát cho đến những năm 80 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ này đã suy giảm đáng kể về mức độ khăng khít kể từ thời gian sau đó (1).

Một số lý do cho sự phai nhạt trong quan hệ giữa giá xăng dầu và lạm phát gồm, như đã nói, tác động nghịch chiều của giá xăng dầu lên mức chi tiêu của người tiêu dùng, sự điều hành hiệu quả hơn trong chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương, và rổ hàng hóa và dịch vụ đo lường lạm phát ngày càng dành trọng số lớn hơn cho dịch vụ chứ không phải là cho các loại hàng hóa mà giá cả bị trói với giá dầu (2).            

Riêng với Việt Nam, những năm khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam thời kỳ từ 2008 chủ yếu bắt nguồn từ sai lầm trong chính sách kinh tế vĩ mô, gồm in tiền kích cầu kích cung vô tội vạ, đặc biệt là cho các “quả đấm thép” như Vinashin. Giá dầu tăng vọt trong thời kỳ này vì thế không nên bị quy là nguồn cơn của mọi bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong cùng kỳ với hậu quả kéo dài đến tận ngày nay như núi nợ xấu và sự yếu kém của nhiều ngân hàng thương mại.

Ngoài lỗ hổng trong lập luận, đề xuất bình ổn giá xăng dầu ở Việt Nam còn bất cập ở chuyện giải pháp thực thi và tính thực tiễn của chúng. Theo đó, giải pháp bình ổn xăng dầu được đề xuất gồm sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, giảm một số loại thuế (tiêu thụ đặc biệt, bảo vệ môi trường...), và sử dụng nguồn thu dầu thô, vốn được cho là “đang tăng lên, có thời điểm tăng đến hơn 20%” mà không làm tăng thêm gánh nặng cho ngân sách.

Về Quỹ Bình ổn xăng dầu, vì nó không phải là được một bên/nước thứ ba nào đó cho không, mà chẳng qua chỉ là tiền túi của người tiêu dùng xăng dầu ứng ra trước, nên chừng nào còn duy trì trích lập và sử dụng quỹ này thì chừng đó người tiêu dùng còn bị tổn hại, và áp lực lạm phát từ giá xăng dầu tăng lên nền kinh tế và người tiêu dùng sẽ không hề mảy may giảm đi như đề xuất.

Kể cả khi áp dụng kiểu trích lập giảm đi, không phải là 300 đồng/lít xăng nữa, khi giá xăng dầu nhập khẩu tăng mạnh thì hành vi này cũng chỉ có tác dụng là giảm nhẹ áp lực lạm phát trong tương lai so với việc phải trích lập đủ 300 đồng/lít tại thời điểm hiện tại. Và về lâu về dài, với mục đích “bình ổn” thì quỹ này phải gia tăng trích lập mạnh hơn trong các kỳ sau để đạt quy mô “bình ổn” cần có trong tương lai, nên rốt cuộc trích lập và sử dụng quỹ này không hề có tác dụng tích cực đến ổn định giá cả.

Về việc giảm thuế phí có liên quan đến xăng dầu, điều này đương nhiên là tốt, có lợi cho người tiêu dùng. Nhưng, ngược lại, nó đương nhiên là bất lợi cho thu ngân sách. Nói cách khác, bình ổn giá xăng dầu theo kiểu này chẳng qua chỉ là dùng nguồn lực nhà nước bù lỗ cho người tiêu dùng và nền kinh tế. Giả sử ngân sách nhà nước dồi dào, thặng dư thì... không sao, bởi đây là một kiểu bình ổn “con nhà giàu”. Tiếc là Việt Nam không phải vậy nên cắt giảm thu ngân sách đổi lấy bình ổn giá xăng dầu đồng nghĩa với hoặc là bất ổn ở một số lĩnh vực khác do thiếu kinh phí từ ngân sách, hoặc là bất ổn vĩ mô nói chung khi Ngân hàng Nhà nước phải tăng in tiền bù đắp cho bội chi ngân sách và/hoặc phải tăng vay nợ/”huy động” trong và ngoài nước.

Về sử dụng nguồn thu tăng lên từ dầu thô, điều bất cập trước tiên với kiểu giải pháp này là tư duy kiểu “đồng này mua mắm, đồng này mua muối”. Cho dù thu từ dầu thô có tăng lên (mạnh), nhưng tiền này phải được hòa chung vào thu ngân sách và sử dụng cho các mục đích chi tiêu công (đã lên kế hoạch). Nếu cứ giữ tư duy này thì trước hết cần trả lời câu hỏi, tại sao lại được/nên dùng tiền thu từ dầu thô cho việc bình ổn giá xăng dầu, mà không phải là những mục đích cấp bách khác như tăng kinh phí phòng chống dịch và phục hồi kinh tế, hay hỗ trợ cho người lao động để họ yên tâm trở lại các thành phố và trung tâm công nghiệp cả nước?

Và điều quan trọng hơn là tính chính xác của ý kiến cho rằng thu nhập từ dầu thô của Việt Nam đang tăng (mạnh) lên. Nhìn từ phía cung, chỉ số sản xuất công nghiệp (IPP) của ngành khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên trong 10 tháng đầu năm 2021 thực tế giảm mạnh tới 13,3%, theo báo cáo gần đây của Tổng cục Thống kê. Năm 2020 cũng chứng kiến tình hình tương tự.

Còn xét về lượng và kim ngạch xuất khẩu, tính từ đầu năm đến ngày 15/10 năm nay, số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy Việt Nam xuất khẩu 2,4 triệu tấn dầu thô, thu về 1.286 triệu đô la. Cùng kỳ năm 2020, các con số này lần lượt là 3,9 triệu tấn và 1.322 triệu đô la. Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu dầu thô thậm chí còn cao hơn dù sản lượng xuất khẩu không bằng năm 2020 (3,2 triệu tấn và 1.640 triệu đô la).

 Với sự tăng tiến kiểu thụt lùi mang tính xu hướng này thì đề xuất dùng nguồn thu “tăng lên” từ dầu thô để tài trợ cho việc bình ổn giá xăng dầu vừa là không chính xác, vừa là bất cập về lập luận như nói ở phần trên.      

 -------

(1) https://www.investopedia.com/ask/answers/06/oilpricesinflation.asp

(2) https://investingnews.com/daily/resource-investing/energy-investing/oil-and-gas-investing/oil-price-and-inflation/

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).