Friday 15 May 2020

Sự điều chỉnh cần thiết (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 14/5/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/303506/su-dieu-chinh-can-thiet-voi-cac-chinh-sach-hau-covid.html
Ngày 9/5, Thủ tướng đã chủ trì Hội nghị đối thoại với doanh nghiệp để tìm ra các biện pháp vượt qua thách thức, đón thời cơ, phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19. Từ hội nghị này, toát lên mấy điểm đáng chú ý.

Trước hết, có lẽ hội nghị này là lần đầu tiên Thủ tướng Chính phủ đề cập đến một chỉ tiêu tăng trưởng GDP mới thấp hơn mức mục tiêu cần đạt được nêu ra hồi tháng 4, thời điểm cả nước đang ở cao trào của dịch. Cụ thể hơn, trong hội nghị đối thoại tháng 5 này, Thủ tướng nhấn mạnh năm 2020 tăng trưởng Việt Nam phải đạt trên 5%.  

Nếu so với tinh thần “quyết không điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng” hồi tháng 4 (tức tăng trưởng vẫn phải đạt khoảng 6,8% năm 2020) thì mức 5% tuyên bố trong hội nghị là một sự điều chỉnh giảm đáng kể, bằng khoảng 3/4 mục tiêu tăng trưởng đặt ra trước đây.

Trong những tháng trước đây, người viết đã đôi lần khuyến nghị Chính phủ cần phải giảm mục tiêu tăng trưởng trong vòng xoáy của đại dịch cùng với tất cả các sự bất trắc đi kèm, sản sinh từ nó. Khuyến nghị này chủ yếu được rút ra từ những bài học đối phó với khủng hoảng trong quá khứ, đặc biệt giai đoạn 2009-2010. Thời kỳ đó, sự “quyết liệt” thúc đẩy tăng trưởng qua các gói “kích cầu” mù quáng đã để lại di chứng nghiêm trọng cho nền kinh tế trong suốt những năm sau này, dù tăng trưởng GDP trong thời kỳ đó cũng “nhúc nhắc” tăng thêm được đôi chút.

Sự cương quyết không điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng hồi tháng 4 đặt ra rủi ro đáng kể về sự lặp lại những sai lầm cũ, bởi đơn giản là để đạt được tốc độ tăng trưởng cao đến mức thành không tưởng như vậy trong bối cảnh mọi thứ mù mịt, nhìn đâu cũng thấy khó khăn thì sẽ chẳng có một giải pháp nào ngoài việc phải tung tiền ra hết cỡ  một cách cũng mù quáng gần như trước đây để đạt được sự bứt phá ngắn hạn nào đó về tăng trưởng.

Rất may là có lẽ cũng đã học được những bài học đắt giá trong quá khứ nên các cơ quan chức năng lần này đã trở nên thận trọng hơn rất nhiều trong “chiến dịch giải cứu” nền kinh tế dù vẫn còn nguyên đó áp lực phải góp phần đạt được mục tiêu tăng trưởng cao. Rõ thấy nhất là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã không còn (phải) tung ra những gói cho vay hỗ trợ lãi suất thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. NHNN dù cũng phải yêu cầu hệ thống ngân hàng thương mại tích cực và tăng cường hỗ trợ nền kinh tế, và NHNN cũng gián tiếp hỗ trợ qua việc cho vay tái cấp vốn, nhưng NHNN đã công khai lặp lại xuyên suốt một chủ trương nhất quán là kiên quyết không hạ chuẩn cho vay để tránh phát sinh nợ xấu, bất chấp đây đó có nhiều lời kêu gọi giải cứu từ phía các tổ chức hữu trách liên đới, hiệp hội, doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Thực tế này cho thấy tinh thần tăng trưởng kinh tế nhưng không phải là bằng mọi giá, tăng trưởng phải đi đôi với ổn định vĩ mô đã trở thành nhận thức chung hiện nay, chứ không chỉ dừng lại ở lời hô hào hay là khẩu hiệu bề ngoài nữa.

Và cho đến hội nghị ngày 9/5 thì Thủ tướng đã gián tiếp công nhận sự điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng, qua đó cũng là trực tiếp “giải cứu” cho các cơ quan chức năng như NHNN không phải đau đầu tìm điểm cân bằng giữa một bên là áp lực từ Thủ tướng, từ Chính phủ và một bên là nhu cầu đảm bảo an toàn hệ thống và sự ổn định kinh tế vĩ mô.

Vấn đề tiếp theo là sự phù hợp của mục tiêu tăng trưởng 5%. Mục tiêu này vẫn là cao hay đã đủ thấp, trong tầm tay mà không gây ra nguy cơ bất ổn lớn nào cho kinh tế vĩ mô (nhưng vẫn là mức cao lý tưởng cho kinh tế thế giới)? Vì ngay như IMF cũng chỉ dự báo, như Thủ tướng cho biết, tăng trưởng  của Việt Nam năm nay chỉ là 2%.

Trong và ngoài hội nghị cũng có nhiều nhận định về cơ hội “hiếm có”, cơ hội “vàng” cho Việt Nam, sự “chuyển biến ngoạn mục”, gây “kinh ngạc” cho thế giới... thời hậu đại dịch, cũng như khuyến nghị chính sách này khác để Việt Nam khắc phục các khó khăn, trở ngại, tận dụng tốt các cơ hội trời cho này. Nhưng tiếc là nhiều trong số nhận định lạc quan này vẫn mang hơi hướng suy diễn chủ quan, tạo nên ấn tượng Việt Nam là một thỏi nam châm mới của thế giới, tương tự như nhận định thời TPP trước đây rằng Mỹ rất thiết tha với TPP, tìm mọi cách lôi kéo Việt Nam vào TPP vì tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam trong thỏa thuận này.

Trong những khuyến nghị chính sách, trừ những cái “độc đáo” như kiểu đặt trần lãi suất tiền gửi dài hạn 5%/năm, còn thì phần lớn các khuyến nghị còn lại chung quy lại chỉ đòi nhà nước mở hầu bao hỗ trợ cho, hoặc giảm thu ngân sách (thuế, phí...) từ đối tượng này, đối tượng kia.

Chắc chủ nhân của kiến nghị đặt trần lãi suất cũng biết rõ sự hữu hiệu cũng như khả năng thực thi của trần lãi suất suốt cả thời gian trước đây, nhất là mỗi khi có cuộc đua lãi suất của các ngân hàng thương mại, nên chắc cũng sẽ biết rõ khả năng phá sản của khuyến nghị của mình.

Với những khuyến nghị khác về việc nhà nước tăng chi, giảm thu thì phải nói thẳng thắn là chẳng có gì là mới mẻ, là “độc đáo Việt Nam” nên cũng khó mà hy vọng sẽ tạo ra một bước chuyển biến ngoạn mục hay gây kinh ngạc gì, nếu không muốn nói khác đi vì khả năng tăng chi, giảm thu của Việt Nam còn hạn hẹp hơn rất nhiều nước khác trên thế giới.

Phép thử của Chính phủ kiến tạo (Bài đăng trên TBKTSG bản in, ngày 6/5/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/303267/tbktsg-so-19-2020-tram-dau-do-dau…-trai-phieu-doanh-nghiep.html

Khẩu hiệu xây dựng Chính phủ kiến tạo đã và đang được cố gắng hiện thực hóa đưa vào cuộc sống từ nhiều năm nay. Cho đến nay, một số kết quả bước đầu đã được ghi nhận, như nỗ lực cắt giảm thủ tục kinh doanh của các bộ. Tuy vậy, vẫn còn nhiều tồn tại dai dẳng đến mức thành vô lý đang thách thức nghiêm trọng tính khả thi của khẩu hiệu này.

Một ví dụ điển hình của những tồn tại đó là chuyện doanh nghiệp nhà nước (DNNN) không công bố, hoặc công bố không đầy đủ thông tin theo quy định. Đã không biết bao nhiêu lần từ năm này qua năm khác vấn đề này được mang ra thảo luận, nhắc nhở, thúc giục và “yêu cầu nghiêm túc thực hiện” ở, bởi mọi cấp độ lên đến Thủ tướng. Nhưng rồi sự việc đâu vẫn hoàn đấy, không hề có triển vọng được cải thiện.

Đối tượng được mang ra phê phán trước tiên là các lãnh đạo DNNN. Điều này cũng đúng vì chắc không ít người đã hoặc cố tình coi nhẹ, xem thường quy định pháp luật về công bố thông tin, hoặc thậm chí có những lý do “khó nói” để trì hoãn việc công bố này, như, ví dụ, muốn che giấu những khoản kinh doanh thua lỗ, những giao dịch mờ ám, mang tính trục lợi.

Tuy nhiên, đã và sẽ có không ít DNNN lại đổ lỗi vấn đề này là do sự chậm chễ của cơ quan chủ quản, cơ quan đại diện chủ sở hữu trong việc phê chuẩn các kiến nghị, giải trình của DNNN, làm chậm chễ hoặc không đảm bảo chất lượng thông tin mà DNNN phải công bố theo quy định. Trong khi đó, cơ quan đại diện chủ sở hữu cũng không làm tròn trách nhiệm của mình theo quy định, như không đôn đốc triệt để doanh nghiệp công bố thông tin, hoặc không thực hiện đầy đủ nhiệm vụ về công bố thông tin của bản thân mình, gồm không xây dựng chuyên mục riêng về công bố thông tin, chưa thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm về công bố thông tin...(1).

Ở cấp quản lý cao nhất, Chính phủ và Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, có thể thấy rõ tinh thần “quyết liệt” trong thực thi pháp luật về công bố thông tin của DNNN, được thể hiện chủ yếu ở các công văn, các hội nghị, cuộc họp thúc giục, yêu cầu các cấp, ngành và DNNN công bố thông tin theo quy định. Nhưng đáng tiếc là sự quyết liệt này không đi kèm với chế tài cho những cá nhân, bộ phận không tuân thủ pháp luật, mà bằng chứng là tình trạng vi phạm vẫn cứ diễn ra tràn lan kéo dài từ năm này sang năm khác.

Trước tình trạng ai cũng có phần lỗi của mình, sẽ là không đủ, không thỏa đáng để quy kết hoàn toàn trách nhiệm cho một đối tượng cụ thể nào đó, nhất là DNNN.

Đương nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật trắng trợn nhưng “hòa cả làng” cũng không được phép để xảy ra đối với một Chính phủ kiến tạo, đặc biệt là khi pháp luật này liên quan đến tăng cường tính minh bạch và nỗ lực nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN. Ngược lại, cũng không thể nhẹ nhàng, dễ dãi đổ lỗi cho “cơ chế”, hay sự “không đồng bộ”, “chưa hoàn thiện” của hệ thống pháp luật..., bởi những lỗi này đều là lỗi chủ quan, có thể khắc phục được một khi Chính phủ quyết tâm cải cách và... kiến tạo!

Như vậy, sẽ là không quá lời khi nói rằng việc xử lý vấn đề vi phạm pháp luật về công bố thông tin của DNNN sẽ là một phép thử cho khả năng và sự tồn tại của Chính phủ kiến tạo.

Cần làm gì và như thế nào để khắc phục vấn nạn công bố thông tin của DNNN không phải là mục đích và tầm của bài viết này, nhưng xin nói rằng phương cách xử lý hiện tại chắc chắn sẽ không đi đến đâu, như thực tế đã chứng minh.

Do đó, nếu cho rằng, nhận thức được rằng sẽ khó hoặc không xử lý được việc vi phạm các quy định pháp luật về công bố thông tin của DNNN thì, thay vì bãi bỏ các quy định này, Chính phủ hãy thể hiện sự kiến tạo của mình bằng cách triệt để cải cách DNNN, gồm tư nhân hóa chúng, chỉ giữ lại một số ít DNNN thiết yếu, không thể không có và việc công bố thông tin về chúng là không cần thiết.
(1) https://tinnhanhchungkhoan.vn/doanh-nghiep/gan-30-doanh-nghiep-nha-nuoc-van-chua-thuc-hien-cong-bo-thong-tin-319960.html

Friday 8 May 2020

Đừng để quản lý chỉ là hình thức (Bài đăng trên TBKTSG bản in, 29/4/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/303062/tbktsg-so-18-2020-chien-luoc-kinh-te-song-chung-voi-dai-dich.html

Hồi tháng 3 năm nay, theo báo chí và website của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Ủy ban) thì Ủy ban đã phê duyệt kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển năm 2020 của 9 trong số 19 tập đoàn, tổng công ty do Ủy ban quản lý, gồm Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng công ty Đầu tư Phát triển đường cao tốc Việt Nam (VEC), Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Tổng công ty Viễn thông MobiFone (MobiFone), Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam (CTCP), Công ty mẹ - Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Vietnam Airlines (HVN), và Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV).

Chung quy vẫn là lỗi chủ quan

Kể từ tháng 3 đến thời điểm bài viết, hoàn toàn không có thêm thông tin cập nhật gì thêm về chuyện phê duyệt kế hoạch sản xuất, kinh doanh này nên có thể suy ra rằng hiện tại vẫn chỉ có 9 tập đoàn, tổng công ty là đã có kế hoạch sản xuất, kinh doanh được phê duyệt. Như vậy, vẫn còn đến hơn một nửa số tập đoàn, tổng công ty thuộc quản lý của Ủy ban đang sản xuất, kinh doanh, đầu tư... vô kế hoạch!

Không rõ lý do của việc chậm chễ này, nhưng căn cứ theo thông tin trên báo chí hồi tháng 3 rằng Vinalines vẫn chưa có báo cáo tài chính quý 4 năm 2019 (1) thì có thể cho rằng một phần lý do của sự chậm chễ này là do một số tập đoàn, tổng công ty vẫn chưa nộp báo cáo tài chính và (do đó) chưa đệ trình kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển năm 2020 để Ủy ban phê duyệt.

Nếu đúng là vì lý do không/chưa có báo cáo tài chính, không/chưa nộp kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển thì trách nhiệm hàng đầu vẫn thuộc về Ủy ban bởi đã không thúc giục, bắt buộc các tập đoàn, tổng công ty nộp báo cáo và kế hoạch đầy đủ, đúng hạn, trong khi một số tập đoàn và tổng công ty khác đã hoàn thành nghĩa vụ này.

Nếu có lý do rằng Ủy ban đã nhận được báo cáo, kế hoạch từ doanh nghiệp nhưng họ vẫn chưa phê duyệt được bởi những yếu tố “khách quan” như không đủ nhân lực có trình độ, đạt yêu cầu cho nhiệm vụ phê duyệt này thì đây không còn là yếu tố khách quan nữa, mà hoàn toàn mang tính chủ quan. Bởi Ủy ban đã được thành lập từ hơn hai năm nay với sứ mệnh gồm phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thuộc quản lý nên việc tuyển đủ nhân lực như yêu cầu và quy hoạch phải là một trong những đầu công việc trọng tâm phải làm ngay. 

Còn nếu quy cho một lý do “khách quan” khác nghe dễ thuyết phục hơn rằng đã có sự “vênh” trong hiểu và diễn giải các văn bản pháp luật liên quan trong mối quan hệ nghiệp vụ giữa Ủy ban và các bộ nên dẫn đến việc phê chuẩn chậm chễ... thì Ủy ban vẫn không thoát được trách nhiệm hàng đầu bởi là cơ quan duy nhất phê duyệt kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thuộc quản lý nên phải tích cực, chủ động giải quyết sự “vênh” này bằng những cách như trình Thủ tướng cho ý kiến xử lý... Cần lưu ý rằng Thủ tướng cũng đã phê bình việc Ủy ban chưa đề xuất được thể chế để sửa các vướng mắc như cơ chế, chính sách chồng chéo, chưa rõ ràng... (2)

Căn cứ phê duyệt là dấu hỏi

Không rõ căn cứ nào để Ủy ban xem xét và phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng rất có thể Ủy ban chủ yếu vẫn phải dựa vào kế hoạch đệ trình bởi doanh nghiệp rồi “nâng lên đặt xuống” một vài con số nào đó.

Dẫu vậy, hãy trở lại với trường hợp chưa có báo cáo tài chính quý 4/2019 của Vinalines. Sự thiếu vắng này cho thấy ít nhất là đối với Vinalines, kế hoạch sản xuất kinh doanh của họ được Ủy ban phê duyệt khi chưa rõ doanh thu, lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính khác cho cả năm 2019 là như thế nào để từ đó làm căn cứ cho việc lập kế hoạch năm nối tiếp (2020). Hay nói một cách không quá lời rằng kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư của những doanh nghiệp thuộc quản lý của Ủy ban (như Vinalines) và việc phê duyệt chúng nhiều khi chỉ là để cho có!

Đó là chưa kể thực tế là hiện nay vốn đầu tư cho một số dự án của những doanh nghiệp như VEC đang gặp vướng mắc (liên quan đến việc bàn giao các doanh nghiệp này về Ủy ban mà không còn nằm dưới sự quản lý của Bộ Giao thông Vận tải nữa). Sự vướng mắc này chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn đến kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp này ít nhất trong năm 2020. Thế nhưng dường như vấn đề này đã không được cân nhắc khi Ủy ban phê duyệt kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư của những doanh nghiệp này. Bởi vậy, chất lượng kế hoạch sản xuất kinh doanh và ngay cả việc phê duyệt là một dấu hỏi.

Tóm lại, với sự chậm chễ nghiêm trọng cùng với tồn tại hiện hữu về chất lượng trong việc phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp thuộc quản lý của Ủy ban, có thể nói rằng việc quản lý các tập đoàn và tổng công ty thuộc Ủy ban chỉ là hình thức, diễn ra trên giấy. Như vậy, dù Ủy ban đã trải qua một thời gian tồn tại và hoạt động không thể nói là ngắn, năng lực quản lý, vận hành và, do đó, ý nghĩa tồn tại của Ủy ban cần phải được xem xét lại một cách nghiêm túc.    

(1) https://cafef.vn/sieu-uy-ban-duyet-phuong-an-kinh-doanh-2020-cho-loat-tap-doan-tong-cong-ty-20200228111739082.chn

(2) https://thanhnien.vn/thoi-su/uy-ban-quan-ly-von-con-cham-thuc-hien-mot-so-viec-quan-trong-1172976.html

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).