Sunday 26 September 2021

Hạn mức tăng trưởng tín dụng: Những lý do... trật lất!

https://thesaigontimes.vn/han-muc-tang-truong-tin-dung-nhung-ly-do-chua-xac-dang/

Mới đây, có đại biểu Quốc hội đã đề nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xem xét trong thời gian tới thay việc quản lý bằng biện pháp hành chính là cấp "room" tín dụng (tức hạn mức tăng trưởng tín dụng – người viết), bằng việc quản lý hệ số an toàn vốn, vừa đảm bảo an toàn, vừa phù hợp với chuẩn Basel II và thông lệ quốc tế (1).

Lý do cho đề nghị này, theo vị đại biểu, là cần có những biện pháp, những chính sách, cơ chế tạo động lực cho doanh nghiệp trong nước, nhất là để doanh nghiệp tư nhân được thuận lợi vay vốn, đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng. Vốn tín dụng từ ngân hàng là nguồn tiếp cận chính của doanh nghiệp. Nếu dòng vốn không kịp thời, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, kiệt quệ dẫn đến phải đóng cửa, phá sản. Kinh tế có thể dẫn đến suy thoái, sau một đợt khủng hoảng tài chính sẽ cần rất nhiều năm để phục hồi.

Theo người viết, dường như vị đại biểu trên đã hiểu sai về vai trò và tác động của hạn mức tăng trưởng tín dụng đến doanh nghiệp và nền kinh tế nên mới đề nghị NHNN bỏ nó đi.

Cụ thể hơn, hạn mức tăng trưởng tín dụng đúng là sẽ hạn chế mức độ tăng trưởng tín dụng (tức “room” tín dụng theo cách hiểu của vị đại biểu) của từng tổ chức tín dụng theo ý kiến chủ quan của NHNN. Nhưng điều này không có nghĩa là doanh nghiệp là khách hàng của một tổ chức tín dụng cụ thể, ví dụ là ngân hàng A, cũng sẽ bị giới hạn mức độ cho vay một cách tương ứng. Bởi ngoài ngân hàng A thì doanh nghiệp còn có thể vay vốn ở ngân hàng B, C, E..., miễn là doanh nghiệp đáp ứng được các tiêu chuẩn để được vay vốn từ các ngân hàng này. Tất nhiên cũng phải có thêm điều kiện đủ là lãi suất cho vay của các ngân hàng này phải ở mức cạnh tranh, chấp nhận được bởi và làm cho doanh nghiệp muốn vay.

Với lý do... trật lất như thế này thì rõ ràng NHNN không có lý do gì để phải bỏ công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng, một công cụ mà cho đến nay NHNN luôn kiên định bảo vệ. Lưu ý thêm rằng người viết lập luận “hộ” cho NHNN như thế này không phải là để ủng hộ NHNN duy trì công cụ này. Thực tế, người viết đã đôi lần phân tích sự bất hợp lý của công cụ này, và sẽ tiếp tục lặp lại ý này trong phần sau của bài viết.

Tất nhiên, vị đại biểu trên có thể bổ sung thêm vào lập luận của mình rằng do các ngân hàng khác như B, C, E... cũng bị hạn chế tăng trưởng tín dụng (tăng trưởng tín dụng của họ cũng chỉ được phép ở một mức cụ thể nào đó, ví dụ như 12% hoặc 18% trong năm, chứ không phải là vô hạn) nên rốt cuộc doanh nghiệp đi vay từ các ngân hàng này cũng sẽ bị hạn chế số vốn vay được.

Cho dù vậy thì cần nhớ rằng, về nguyên tắc, sẽ không thể, không bao giờ có việc một ngân hàng trung ương lại để cho doanh nghiệp muốn vay bao nhiêu thì cũng được hệ thống ngân hàng đáp ứng (vô điều kiện). Hệ thống ngân hàng có thể cung cấp bao nhiêu tín dụng cho nền kinh tế phụ thuộc vào cung tiền của ngân hàng trung ương, được tính toán dựa trên nhiều yếu tố như lạm phát và việc làm. Do đó, giả sử ngân hàng trung ương (trong trường hợp Việt Nam là NHNN) chỉ muốn tăng trưởng tín dụng của cả nền kinh tế ở một con số cụ thể, chẳng hạn là 10%, thì họ cũng chỉ bơm ra nền kinh tế một lượng tiền phù hợp với con số này. Với một lượng cung tiền có hạn, các ngân hàng phải cạnh tranh cho vay một cách tối ưu nhất (khách vay tốt, lãi suất cao), còn khách hàng cũng sẽ chỉ vay một các tối ưu nhất (lãi suất thấp, điều kiện dễ).

Các yếu tố cạn tranh mang tính thị trường như vậy sẽ dẫn đến tình trạng luôn chỉ có một số doanh nghiệp được vay/vay được số tiền mong muốn với mức lãi suất “chấp nhận được”. Do đó, dù NHNN không áp dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng thì rốt cuộc cũng sẽ không có chuyện doanh nghiệp vay vốn dễ và tùy thích theo nhu cầu. Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn như hiện nay, dù NHNN có nới hạn mức tăng trưởng tín dụng, hoặc tốt nhất là bỏ cái này đi, thì doanh nghiệp vẫn khó, càng khó tiếp cận tín dụng ngân hàng. Nói cách khác, hạn mức tăng trưởng tín dụng không phải là cái cần bị phê phán trong trường hợp cụ thể của vị đại biểu này.

Nói như trên không có nghĩa là NHNN đã đúng khi kiên định với hạn mức này. Trong phản hồi của mình trước đề nghị của vị đại biểu trên, NHNN cũng đưa ra những lý do... trật lất, không giải thích hợp lý được tại sao phải duy trì hạn mức này.

Cụ thể, NHNN cho rằng tăng trưởng tín dụng quá cao không chỉ tiềm ẩn rủi ro bất ổn vĩ mô chung cho nền kinh tế mà còn gia tăng rủi ro đối với từng tổ chức tín dụng, ảnh hưởng đến an toàn của hệ thống ngân hàng. Để đảm bảo an toàn hệ thống, kiểm soát chặt chẽ nợ xấu, thời gian qua, NHNN kiên định kiểm soát chặt tăng trưởng tín dụng theo hướng đưa ra chỉ tiêu tín dụng định hướng đầu năm và thông báo cho từng tổ chức tín dụng.

Có thể thấy ngay lý do này của NHNN chính là điều đã được phân tích ở đoạn trên. Theo đó, hoàn toàn đúng đắn khi NHNN cẩn trọng với rủi ro đến từ việc tín dụng tăng trưởng quá cao. Nhưng cũng như đã nói, để quản lý tăng trưởng tín dụng thì NHNN chỉ cần quản lý cung tiền – một trong những chức năng và sứ mệnh cơ bản của ngân hàng trung ương, mà cụ thể trong trường hợp muốn hạn chế tăng trưởng tín dụng thì chỉ cần hạn chế tăng cung tiền/hạn chế nới lỏng chính sách tiền tệ – chứ không phải là quay ra ban hành và áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng tổ chức tín dụng.

Cuối cùng, tuy nhiều người, gồm người viết và các tổ chức nước ngoài như IMF và Moody’s, đã chỉ ra những bất cập của hạn mức tăng trưởng tín dụng nhưng NHNN vẫn “kiên định” duy trì hạn mức này. Điều này đặt ra câu hỏi, phải chăng NHNN còn ẩn ý gì đó mà họ không tiện nói ra để tiếp tục kiên định như vậy?

Một phần câu trả lời này có thể nằm trong ý đồ sử dụng hạn mức này như “cây gậy hay củ cà rốt” để “khuyến khích” tổ chức tín dụng tuân thủ tốt định hướng chính sách tiền tệ của NHNN, bao gồm tự nguyện cắt giảm lãi suất cho vay với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi Covid-19 (2).

Nếu đúng vậy thì dễ hiểu tại sao NHNN lại luôn bảo vệ công cụ hạn mức này nhưng luôn bằng những lý do... trật lất! 

------

(1) https://cafef.vn/nhnn-phan-hoi-de-xuat-thay-room-tin-dung-bang-quan-ly-he-so-an-toan-von-20210909213202623.chn

(2) https://baodautu.vn/giam-lai-suat-va-cu-ca-rot-mang-ten-room-tin-dung-d147542.html


Monday 13 September 2021

Thay đổi phương thức mua ngoại tệ không nhất thiết làm thay đổi lãi suất (Bài đăng trên KTSG, 13/9/2021)

https://thesaigontimes.vn/thay-doi-phuong-thuc-mua-ngoai-te-khong-nhat-thiet-lam-thay-doi-lai-suat/

Lâu nay báo chí và giới phân tích vẫn có thói quen nhìn vào động thái chính sách liên quan đến mua, bán ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để đoán định xu hướng của lãi suất tiền đồng.

Cụ thể, việc NHNN gần đây thay đổi phương thức mua giao kỳ hạn 6 tháng về phương thức mua giao ngay, theo giới phân tích, sẽ tạo nguồn cung (tiền) mới và tức thời. Do đó, thanh khoản được kỳ vọng sẽ tiếp tục dồi dào, làm giảm nhẹ mặt bằng lãi suất trong (các) tháng tiếp theo (1).

Kiểu nhận định, phân tích trên là rất phiến diện, và, do đó, kết luận đưa ra là không chính xác, mang tính võ đoán. Đó là do những lý do sau.

Thứ nhất, cung tiền, và do đó, lãi suất có thay đổi hay không thì không chỉ phụ thuộc vào mỗi hành động mua/bán ngoại tệ của NHNN (hay mua/bán kiểu gì, theo phương thức nào). Vì một lý do nào đó, nếu NHNN nhận thấy cung tiền của mình đã đủ lớn ở mức cần thiết, họ hoàn toàn có thể, một mặt, mua vào ngoại tệ (để, ví dụ, đáp ứng nhu cầu tăng dự trữ ngoại hối), một mặt lại tung trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN ra để hút tiền đồng về. Đây là hành động gọi là sterilisation (trung hòa tiền tệ).

Cho nên, muốn biết hành động mua vào ngoại tệ của NHNN có phải là hành động nới lỏng tiền tệ (để hạ lãi suất tiền đồng) hay không thì ít nhất cũng phải phân tích xem trong cùng thời điểm diễn ra việc mua ngoại tệ với số lượng đáng kể này thì NHNN có tiến hành bán trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN qua thị trường mở để thu bớt tiền đang lưu thông trong nền kinh tế về kho quỹ của NHNN hay không.

Nhiều phân tích tuy cũng nhắc đến hoạt động của NHNN trên thị trường mở nhưng lại chỉ chú trọng đến việc NHNN có chào thầu cho vay (cho vay các ngân hàng thương mại qua cầm cố giấy tờ có giá của họ) trên thị trường này hay không. Đây cũng là một dạng phân tích ngược, phiến diện, bởi lẽ ra phải tập trung vào phía ngược lại, tức NHNN có chào thầu cho ngân hàng thương mại mua lại trái phiếu Chính phủ hay tín phiếu NHNN hay không.

Tất nhiên, có không ít giai đoạn mà không thấy NHNN có bất kể hành động gì trên thị trường mở, dù là cho vay ra hay thu tiền về. Ngoài khả năng NHNN không công bố đầy đủ thông tin – là điều khó có thể phủ nhận hay là điều hiếm hoi, tự bản thân việc NHNN không có hành động gì trên thị trường mở như vậy vẫn là chưa đủ để nói rằng NHNN đã nới lỏng tiền tệ (thông qua việc một mặt thì mua vào ngoại tệ, mặt khác thì không bán ra trái phiếu Chính phủ hay tín phiếu NHNN). Bởi, để kết luận như vậy thì ít nhất vẫn phải xem NHNN đã thực sự có mua vào ngoại tệ hay không, mua bao nhiêu, có đáng kể hay không. Nói cách khác, (thay đổi về) phương thức mua ngoại tệ của NHNN, và kể cả việc mua ngoại tệ, không nhất thiết là chỉ dấu cho thay đổi về cung tiền của NHNN, từ đó có kết luận về xu hướng lãi suất trong tương lai.

Thứ hai, giả sử thực sự NHNN có mua ngoại tệ và theo phương thức giao ngay, đồng thời không tiến hành trung hòa tiền tệ. Lúc đó, quả thật cung tiền đồng sẽ tăng lên tức thời. Nhưng điều này cũng vẫn là không đủ để nói lên xu hướng của lãi suất trong thời gian sau đó.

Giả sử đồng thời, hoặc một thời gian ngắn sau đó NHNN lại có những hành động theo xu hướng thắt chặt tiền tệ, gồm tung trái phiếu, tín phiếu ra qua để hút tiền về qua thị trường mở như nói ở trên, hoặc NHNN cắt giảm cho vay tái chiết khấu, tái cấp vốn, thậm chí nâng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc hay giảm lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc. (Lưu ý thêm là hầu như NHNN không công bố thông tin về các khoản cho vay tái chiết khấu, vay tái cấp vốn để biết là NHNN có nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ qua kênh này hay không). Những hành động mang tính thắt chặt này sẽ trung hòa, giảm tác dụng của hành động nới lỏng tiền tệ qua việc mua vào ngoại tệ, kể cả theo phương thức giao ngay, của NHNN.

Thứ ba, và từ việc kết hợp các yếu tố phân tích như trên, cách duy nhất để “thấy” được xu hướng lãi suất và thanh khoản trong tương lai gắn liền với việc thay đổi phương thức mua bán ngoại tệ của NHNN là phải đồng thời xem xét việc mua bán ngoại tệ của NHNN có thực sự đã diễn ra hay không và ở quy mô bao nhiêu (bao nhiêu tiền đồng đã được tung ra thị trường ở một thời điểm cụ thể), và số liệu về cung tiền tại thời điểm có hành động mua bán ngoại tệ và sau đó.

Tuy nhiên, vì NHNN nếu có công bố số liệu về cung tiền thì cũng chỉ làm vậy ít nhất là sau hai tháng kể từ tháng hiện tại. Như vậy, hành động mua bán ngoại tệ của NHNN (chứ chưa nói đến phương thức mua bán ngoại tệ của NHNN) có làm thay đổi lãi suất và thanh khoản hay không chỉ có thể kết luận được sau ít nhất hai tháng. Nhưng vì trong hai tháng sau đó hoàn toàn có khả năng NHNN sẽ tiến hành những hành động chính sách khác liên quan đến cung tiền như nói ở trên. Nên rốt cục... không thể kết luận gì về mối liên quan giữa phương thức mua bán ngoại tệ của NHNN, kể cả bản thân việc mua bán ngoại tệ của NHNN, với xu hướng của lãi suất và thanh khoản trong tương lai sau đó!

----

(1) https://cafef.vn/nguon-tien-moi-co-the-xuat-hien-dua-lai-suat-tiep-tuc-giam-thoi-gian-toi-20210904013749352.chn

Thursday 9 September 2021

Sống chung với dịch nhìn từ Singapore (Bài đăng trên KTSG, 8/9/2021, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/song-chung-voi-dich-nhin-tu-singapore/

TP. HCM nói riêng, cả nước nói chung dường như đã chấp nhận chuyển sang chiến lược sống chung với dịch Covid-19, thay vì chiến lược xét nghiệm, cách ly, cô lập và loại trừ F0 (và cả F1) trong cộng đồng bởi hiệu quả thấp (thể hiện qua con số lây nhiễm/tử vong vẫn tăng nhanh), trong khi hậu quả kinh tế, xã hội lại quá lớn để có thể chấp nhận.

Có người phản đối việc nói sống chung với dịch, lý luận rằng cần phải nói là sống chung với virus Covid-19. Thực ra, dịch hay bản thân Covid-19 đều để lại hậu quả là có một số lượng cụ thể người sẽ bị nhiễm (và trở nặng, tử vong bởi) Covid-19 hàng ngày. Nên nói xác định sống chung với dịch hay Covid-19 đều chỉ là cách nói tắt, mang tính câu chữ mà thôi. Điều quan trọng là chúng ta phải chấp nhận, đặt ra một mốc cụ thể là tối đa có bao nhiêu ca nhiễm Covid-19 trong một ngày, trên một ngàn dân hay trong một địa bàn/cả nước thì có thể là chấp nhận được, đi kèm đó là các biện pháp và chính sách phù hợp.

Đây cũng chính là một trong những điểm cốt lõi trong chiến lược đối phó với (dịch) Covid-19 của Singapore. Nước này đặt ra các giai đoạn phản ứng với dịch/Covid-19 căn cứ vào tình hình lây nhiễm trong cộng đồng cũng như khả năng xử lý của hệ thống y tế nước này. Theo đó, đã từng có giai đoạn các biện pháp giãn cách xã hội được nới lỏng khi số ca lây nhiễm trong cộng đồng chững lại ở con số vài chục người/ngày trong tổng số dân cư, gồm cả người nước ngoài, lao động nhập cư khoảng trên 6 triệu người. Nhưng những biện pháp nới lỏng này lại lập tức được thay bằng các biện pháp thắt chặt khi số ca lây nhiễm trong cộng đồng bùng lên trên một vài trăm/ngày.

Một trong những ví dụ về nới lỏng rồi lại thắt chặt này là sự thay đổi danh sách các nước/vùng lãnh thổ mà du khách từ đó được phép nhập cảnh vào Singapore. Ở trong nước thì sự khác biệt lớn nhất được thể hiện ở số lượng người được phép tụ tập tại các địa điểm công cộng, doanh nghiệp, nhà hàng, hoặc được gặp gỡ/thăm viếng nhà riêng.

Và trong mọi giai đoạn, dù là nới lỏng, thì các biện pháp phòng dịch cá nhân và giãn cách xã hội như đeo khẩu trang mọi nơi mọi lúc (trừ ở nhà), duy trì khoảng cách tối thiểu bắt buộc (1m), truy dấu tiếp xúc bằng các app hay token luôn phải được thực hiện. Tuy nhiên, các biện pháp giãn cách này cũng có một số thay đổi cho phù hợp như bãi bỏ gần đây việc đo nhiệt độ bắt buộc tại các doanh nghiệp, cửa hàng, trụ sở, có lẽ bởi các biến chủng mới không có triệu chứng sốt.

Và có thể là do sự bất khả kháng nên việc giãn cách xã hội như duy trì khoảng cách tối thiểu 1m trên các phương tiện công cộng (tầu điện ngầm, xe buýt) không bị bắt buộc. Thay vào đó, hành khách được khuyến cáo không nói chuyện với nhau và gọi điện khi đang trên tầu, xe.

Tại các trung tâm y tế cơ sở, bệnh viện, người đến khám bệnh được tổ chức thành luồng xanh và vàng. Những người khai báo có triệu chứng ho lập tức được phân vào khu khám riêng và được chỉ định test Covid-19 (miễn phí) ngay. Chi phí khám, chữa bệnh được Chính phủ đài thọ một phần theo chương trình phòng chống cúm quốc gia. Thậm chí việc thanh toán hóa đơn cũng bị cách ly bằng cách bệnh viện sẽ gửi hóa đơn về nhà bệnh nhân theo đường bưu điện và được bệnh nhân thanh toán qua mạng.

Một trong những điều được duy trì nhất quán trong các giai đoạn, kể cả nghiêm ngặt nhất, là cho phép shipper, các doanh nghiệp logistics được hoạt động và người dân được tự do đi lại (và tập thể dục ngoài trời), miễn là tuân thủ quy định về giãn cách xã hội và phòng dịch cá nhân.

Xuyên suốt các giai đoạn ứng phó với dịch bệnh là chiến lược tiêm chủng nhanh chóng phủ khắp toàn dân như một điều kiện cần, yếu tố then chốt để Singapore nới lỏng giãn cách xã hội, mở cửa nền kinh tế, mở cửa với thế giới.

Về trải nghiệm của người dân với các biện pháp và quy định phòng, chống dịch của Chính phủ, nhìn chung người viết cảm nhận có một sự đồng lòng, ủng hộ và hợp tác cao. Những yếu tố nền tảng cho thái độ này là một Chính phủ có năng lực cao, được kiểm chứng qua thực tế, hành động nhanh, đúng, luôn đặt lợi ích của người dân và doanh nghiệp lên hàng đầu; doanh nghiệp được hướng dẫn, hỗ trợ đầy đủ, kịp thời, kể cả về tài chính một cách rất đơn giản (qua online); người dân vẫn được đảm bảo một cuộc sống không quá xáo trộn, bất tiện; những người có thu nhập thấp (thể hiện qua bản khai thuế hàng năm) tự động được Chính phủ gửi tiền hỗ trợ vào tài khoản và/hoặc các phiếu mua (voucher)...

Nhìn từ Singapore, kinh nghiệm có thể rút ra khi muốn sống chung với dịch/Covid-19 trước hết là phải giảm thiểu số ca nhiễm Covid-19 đến một mức chấp nhận được, tùy theo năng lực xử lý của hệ thống y tế cơ sở. Để đạt được điều này thì phải đẩy mạnh tiêm chủng rộng rãi và nhanh chóng nhất có thể. Tiếp đó, duy trì giãn cách xã hội bắt buộc và nghiêm khắc (luôn đeo khẩu trang, truy vết tiếp xúc, duy trì cự ly tối thiểu, không tụ tập đông người – áp dụng với mọi đối tượng, kể cả là quan chức, ở mọi sự kiện...). Cho phép shipper và doanh nghiệp logistics hoạt động bình thường nhưng phải tuân thủ các biện pháp giãn cách xã hội. Tương tự vậy là việc người dân được tự do ra đường (nhưng sẽ bị phạt nặng khi không tuân thủ các quy định giãn cách xã hội).

Để giảm thiểu các tác động tiêu cực và phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, Chính phủ phải tăng cường hỗ trợ tài chính và, quan trọng là, theo một cách đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng.

Doanh nghiệp được sản xuất, kinh doanh nhưng phải cắt giảm số nhân viên có mặt tại một thời điểm, tất nhiên vẫn phải tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp giãn cách, truy vết. Theo đó, sẽ không có chuyện kiểu như “3 tại chỗ”, “một cung đường, hai địa điểm”..., mà chỉ có việc được sản xuất, kinh doanh nếu tuân thủ giãn cách xã hội, giảm số lượng nhân viên tại nơi sản xuất kinh doanh, và tất nhiên là đi kèm với tiêm chủng.

Có một điều “lạ” là chúng ta vẫn tự hào về nguồn nhân lực và khả năng/năng lực về điện tử, IT mà không làm nổi một app/công cụ truy vết tiếp xúc có thể sử dụng rộng rãi, thuận tiện với chi phí thấp (miễn phí cho người dân) như Singapore đã làm để rồi vẫn phải thường xuyên đọc thấy các thông báo khẩn “tìm người đã đến điểm ABC” trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Rồi nữa là chuyện Chính phủ điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt hay sử dụng mobile money..., toàn những chủ trương với giải pháp trên giấy mà những lúc cần thiết như lúc này thì không thấy được áp dụng mấy. Để rồi, ví dụ, người dân và doanh nghiệp vẫn phải nộp giấy tờ xin hỗ trợ (và may mắn thì được nhận tiền) một cách vật lý (và phải ra đường, phải tiếp xúc!).

Tóm lại, muốn mở cửa sống chung với dịch/Covid-19 thì phải cân nhắc, thẳng thắn và trung thực nhìn nhận lại nguồn lực/năng lực xử lý, thực hiện của mình để rồi quyết định cho hợp lý cách thức, phạm vi và nội dung mở cửa để tránh viễn cảnh “toang” nặng, phải đào hố chôn người tập thể như Brazil, trong khi doanh nghiệp và người dân thì vẫn kiệt quệ, bần cùng hóa.

Sunday 5 September 2021

Lý giải việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ (Bài đăn trên KTSG, 6/9/2021)

https://thesaigontimes.vn/ly-giai-viec-giam-lai-suat-tien-gui-vuot-du-tru-bat-buoc-bang-ngoai-te/

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ban hành Quyết định 1349/QĐ-NHNN về mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại NHNN, áp dụng từ ngày 1-9-2021.

Theo đó, NHNN giữ nguyên lãi suất áp dụng đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng và ngoại tệ của tổ chức tín dụng tại NHNN. Cụ thể, lãi suất đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VNĐ duy trì ở mức 0,5%/năm. Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là 0%/năm, lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng VNĐ là 0%/năm. Đồng thời, NHNN giảm lãi suất đối với tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, từ 0,05%/năm theo quyết định đang áp dụng xuống 0%/năm từ 1-9.

Xoay quanh tỷ lệ và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cũng như tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc, hiện vẫn có nhiều điều chưa được hiểu rõ hoặc lý giải sai lầm.

Dự trữ bắt buộc và chính sách tiền tệ

Khi NHNN giảm tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc, điều này đồng nghĩa với việc giải phóng thêm vốn để tổ chức tín dụng cho vay ra nền kinh tế. Như vậy, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một hành động nới lỏng chính sách tiền tệ, và ngược lại.

Thế còn giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc? Khi hạ lãi suất này, NHNN chỉ trả cho tổ chức tín dụng số tiền lãi ít hơn cho lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc mà họ gửi bắt buộc tại NHNN. Do đó, hạ lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc làm giảm bớt lượng tiền mà tổ chức tín dụng có thể cho vay nền kinh tế. Nói cách khác, hạ lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc tương đương với hành động thắt chặt tiền tệ của NHNN, và ngược lại.

Sự việc trở nên phức tạp hơn đối với hành động giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của NHNN. Ngoài khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc tại NHNN tính theo dư nợ tín dụng, tổ chức tín dụng vì một số lý do nào đó, chẳng hạn như dư thừa vốn (tạm thời) mà không thể/không muốn cho vay lẫn nhau hoặc cho vay ra nền kinh tế, lại gửi tại NHNN một số tiền vượt quá số tiền gửi bắt buộc này để vừa hưởng lãi, vừa đảm bảo thanh khoản, an toàn.

NHNN giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc làm giảm động lực gửi tiền của tổ chức tín dụng tại NHNN, đồng nghĩa với việc khuyến khích họ cho vay ra nền kinh tế thay vì gửi tại NHNN, vốn tương đương với việc làm giảm cung tiền. Nói cách khác, giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc là hành động góp phần đảm bảo cung tiền không bị suy giảm, khi các yếu tố khác không thay đổi.

Nhưng từ góc độ tiền lãi, việc NHNN giảm tiền trả lãi cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc cũng có thể coi là một hành động có tác dụng thắt chặt tiền tệ, như nói ở đoạn về lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc nói trên. Tuy nhiên, do tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của tổ chức tín dụng tại NHNN, nếu có, bao giờ cũng lớn hơn lãi tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc mà NHNN trả cho họ, nên về toàn cục thì hành động giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của NHNN vẫn có tác dụng góp phần giữ cho cung tiền không bị ảnh hưởng (thay đổi).

Dự trữ bắt buộc và ngân sách nhà nước

Một số người vẫn lý giải việc NHNN giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và/hoặc tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc là để tiết kiệm cho ngân sách nhà nước. Có lẽ lý giải này xuất phát từ quan niệm sai lầm rằng vì NHNN là một cơ quan cấp bộ của Chính phủ nên tiền chi ra từ NHNN cũng chính là tiền chi ra từ ngân sách.

Như trên đã phân tích, khoản tiền mà NHNN “tiết kiệm” được từ giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc hay tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc chỉ có tác dụng đến cung tiền, và NHNN không được chuyển khoản “tiết kiệm” này vào ngân sách. Cần nhớ rằng ngân sách (Bộ Tài chính) muốn vay (không phải ”thu”) từ NHNN thì phải phát hành trái phiếu để NHNN thông qua hệ thống ngân hàng thương mại mua vào. Tất nhiên, luật Việt Nam hiện cũng cho phép Bộ Tài chính được vay trực tiếp NHNN trong một số trường hợp đặc biệt (và xin nhấn mạnh lại là vay, chứ không phải thu).

Tại sao lại giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lần này?

Chắc chắn hành động liên quan đến dự trữ bắt buộc lần này của NHNN cũng để lại không ít dấu hỏi.

Thứ nhất, tại sao lại chỉ giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, mà không phải là (cả) tiền đồng?

Trả lời: Đơn giản vì lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng đã là 0% theo quy định hiện hành. Việc hạ lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng xuống mức âm là chưa có tiền lệ tại Việt Nam, và chỉ nên được xem xét trong tình huống nền kinh tế phải đối mặt với tình trạng thiểu phát – là điều không đúng với thực tại.

Thứ hai, tại sao lại giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ?

Trả lời: Như trên đã nói, có thể vẫn còn một số tổ chức tín dụng có dư thừa ngoại tệ không muốn bán/cho vay ra nền kinh tế nên chọn gửi vào NHNN, vượt quá mức tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ theo quy định, dù chỉ để hưởng lãi suất 0,05% như hiện tại. Bằng việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ tiền gửi bằng ngoại tệ này xuống 0%, và trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ dồi dào như thể hiện qua sự mạnh lên của tiền đồng so với đô la, nhất là xét đến mục tiêu giảm đô la hóa, hành động này của NHNN có tác dụng khuyến khích tổ chức tín dụng chuyển sang quan hệ mua-bán ngoại tệ thay vì tín dụng (vay-mượn) với NHNN và với nền kinh tế. Việc NHNN giảm vay ngoại tệ từ tổ chức tín dụng thông qua hạ lãi suất này cũng làm giảm rủi ro cho quỹ dự trữ ngoại hối khi đô la đảo chiều, mạnh lên so với tiền đồng.

Thứ ba, tóm lại, việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là hành động nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ trong bối cảnh chính sách tiền tệ được kỳ vọng nới lỏng thêm nữa như hiện nay?

Trả lời: Xét đến cùng, việc giảm vay-mượn ngoại tệ giữa tổ chức tín dụng với NHNN và với nền kinh tế làm giảm nạn đô la hóa nên cùng một lượng tiền cung ứng như hiện tại, việc giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ có tác động tương đương việc tăng cung tiền, nới lỏng chính sách tiền tệ của NHNN, bởi mức độ thay thế tiền đồng bằng ngoại tệ trong các giao dịch sẽ giảm đi.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).