Monday 4 October 2021

Nếu phải vay thêm, thì chỉ vay cho phòng, chống dịch (Bài đăng trên KTSG, 4/10/2021, bản gốc, tiêu đề do báo đặt)

https://thesaigontimes.vn/neu-phai-vay-them-thi-chi-vay-cho-phong-chong-dich/

Chính phủ mới đây đã công bố một số chi tiết về tình hình tài chính dành cho chi, phòng chống Covid-19 trong năm 2021 (1).

Có khá nhiều con số, nhưng tóm lại là về mặt nguồn lực, Chính phủ trung ương và địa phương đã phải huy động đến cả những nguồn vốn chỉ dùng cho những trường hợp không còn cách nào khác gồm nguồn dự phòng, hoặc nguồn không thường xuyên như tiết kiệm chi ngân sách, bên cạnh những nguồn bất thường như Quỹ Vaccine – tức tiền của dân chứ không phải ngân sách nhà nước. Sau khi đã trừ đi phần chi tiêu cho 8 tháng qua, tổng cộng ngân sách trung ương và địa phương còn lại chỉ khoảng 52 ngàn tỷ đồng.

Còn một nguồn có khả năng trông vào là khoản cải cách tiền lương 122 ngàn tỷ đồng. Nhưng khoản này theo quy định là chỉ được dùng để hỗ trợ cho người lao động và doanh nghiệp khó khăn vì Covid-19. Nên dù có được Quốc hội đồng ý cho phép dùng khoản này chi chống dịch thì cũng chỉ là kiểu giật gấu vá vai, theo đó Chính phủ sẽ buộc phải cắt giảm phần hỗ trợ cho người lao động và doanh nghiệp khó khăn một cách tương ứng với phần trích ra từ nguồn này để chi cho chống dịch.

Về kế hoạch chi ngân sách, số tiền 52 ngàn tỷ đồng nguồn ngân sách còn lại này thì... quá ít so với nhu cầu sắp tới. Chỉ riêng tiền mua vaccine sắp tới đã cần đến 16 ngàn tỷ đồng, chưa kể khi phải mua thêm để tiêm nhắc lại. Theo Bộ Y tế,  nếu cả nước có 300.000 người nhiễm Covid-19, trong 28 ngày cần chăm sóc y tế, số tiền ngân sách nhà nước cần chi ra là hơn 60 ngàn tỷ đồng.

Như vậy, có thể nói sức khỏe tài chính quốc gia đang rất ngặt nghèo, hầu như không còn nguồn để khai thác thêm, trong khi nhu cầu chi dù chỉ để đảm bảo giảm thiểu thiệt hại nhân mạng trong những tháng tới có thể là rất lớn, đặc biệt khi mà dịch vẫn có khả năng cao bùng phát (lại) ở nhiều địa phương.

Tất nhiên, đã có nhiều người nhắc đến, đề xuất chuyện tăng vay nợ quốc gia để ngân sách có thêm tiền, với lý do là tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam hiện nay vẫn thấp hơn đáng kể mức trần. Nhưng xin lưu ý một điểm quan trọng là tỷ lệ này thấp bởi GDP của Việt Nam đã được “điều chỉnh” tăng tới hơn 20% do thay đổi cách/phạm vi tính toán, làm giảm mạnh tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam chỉ sau một đêm. Cũng chính vì điều này mà Quốc hội đã phải hạ trần nợ công của Việt Nam xuống so với trước đây để phản ánh thực chất hơn con số thống kê được dùng tại Việt Nam – nợ công vẫn đang tăng nhanh ở Việt Nam chứ không phải ngược lại.

Trước viễn cảnh sẽ phải chi rất nhiều cho chỉ riêng chống dịch, bảo đảm nhân mạng cho người dân, chắc chắn Việt Nam không còn cách nào khác ngoài phải tăng vay nợ. Nhưng trong bối cảnh nợ công đã nhiều nên việc tăng vay nợ, khi bắt buộc phải thực hiện, cần phải rất cẩn trọng.

Theo hướng này, việc tăng vay nợ cần được ưu tiên cho và khống chế theo nhu cầu chi chống dịch trước hết. Nếu “cực chẳng đã”, phải tăng chi hỗ trợ cho người lao động và doanh nghiệp bị ảnh hưởng dịch, mà mục đích cuối cùng cũng là để giảm thiểu thiệt hại nhân mạng vì người dân kiệt quệ cả tiền ăn lẫn sức khỏe, thì có thể cần thiết tăng vay nợ tương ứng.

Còn những mục tiêu chi khác từ ngân sách, từ tăng nợ công cần được gác lại hay chấm dứt hết. Trong đó ít nhất gồm tăng ngân sách dành cho đầu tư công hoặc thúc đẩy giải ngân các dự án đầu tư công hiện hành. Một tham khảo chính sách về điều này là việc Malaysia đã phải hủy bỏ một dự án đường sắt cao tốc nối với Singapore, vì thế, đã phải bồi thường cho Singapore nhiều triệu đô la tiền vi phạm hợp đồng, bởi Malaysia thấy dự án này là không thể kham nổi với tình hình ngân sách căng thẳng của nước này. Do đó, Việt Nam cũng phải mạnh dạn chấp nhận thiệt hại về kinh tế khi ngân sách không thể chịu đựng nổi nữa. Nói cách khác, Việt Nam cần chọn mục tiêu ưu tiên chi ngân sách: Hoặc là chống dịch, bảo toàn nhân mạng người dân, hoặc là dàn hàng ngang cùng tiến – vừa chống dịch vừa duy trì/đảm bảo tăng trưởng kinh tế – để rồi cả hai mục tiêu đều thất bại.

Nếu đã quán triệt được mục tiêu ưu tiên bảo đảm nhân mạng thì toàn bộ ngân sách còn lại, nguồn điều chuyển từ các hạng mục chi tiêu khác, và cuối cùng là nguồn vay nợ ít nhất từ nay đến cuối năm sẽ phải dành cho chống dịch và cứu trợ người dân bị ảnh hưởng có thể duy trì một cuộc sống tối thiểu.

Mọi sự chủ quan về chính sách gồm dự báo lạc quan về tình hình dịch bệnh cũng như khả năng phòng, chống dịch bệnh của chính quyền địa phương và trung ương là hết sức nguy hiểm, như thực tế đã cho thấy rõ thời gian qua. Ngay như Singapore cuối cùng cũng không thể thoát ly được các biện pháp phong tỏa, giãn cách xã hội lặp đi lặp lại dù đã đạt tỷ lệ tiêm chủng đến gần 90% dân số và đang chuẩn bị tiêm mũi thứ ba thì chúng ta cũng đừng nên lạc quan quá vào viễn cảnh bình thường hóa trở lại vào những tháng cuối năm ở Việt Nam.

Biết mình, biết “địch”, nên chúng ta hãy dồn hết sức lực và tâm trí vào phòng, chống dịch từ nay đến cuối năm, thậm chí sang đến năm sau, tạm gác lại mục tiêu tăng trưởng kinh tế hay những thứ xa xôi khác, đặc biệt những thứ lãng phí, làm màu.

Để thay lời kết, xin nhắc lại châm ngôn: “Còn người là còn tất cả”!                           

---------------

(1) https://vnexpress.net/ngan-sach-co-bao-nhieu-de-chong-dich-4360531.html?utm_source=facebook&utm_medium=native&utm_campaign=fanpage


Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).