http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=236191
07:43 | 21/01/2012
Trước câu hỏi nóng sốt - bao giờ thì hạ lãi suất? Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình mới đây đã khẳng định chưa thể hạ lãi suất và dỡ bỏ trần lãi suất huy động cho đến ít nhất tháng 6 tới. Theo ông, ngoài yếu tố lạm phát (đã giảm nhiệt) như là một điều kiện cần, để giảm lãi suất thì vẫn còn thêm điều kiện đủ nữa là phải giải quyết vấn đề khó khăn thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.
Theo giải thích của ông và cách hiểu của nhiều người, vấn đề thanh khoản xuất phát từ việc các ngân hàng huy động vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn, và đặc biệt là cho vay quá nhiều vào lĩnh vực bất động sản và chứng khoán, vốn đang bị đóng băng nên thanh khoản của các ngân hàng càng thêm khó khăn. Thanh khoản khó khăn nên các ngân hàng càng thắt chặt hầu bao của mình, không dễ dãi cho vay các ngân hàng khác và cho khách hàng doanh nghiệp và cá nhân, hoặc nếu có thì cũng cho vay với lãi suất cao, càng đẩy mặt bằng lãi suất lên cao nữa.
Như vậy, cách hiểu trên dường như tách biệt vấn đề khó khăn thanh khoản với việc áp dụng trần lãi suất huy động nói riêng và lãi suất nói chung. Đây là một cách hiểu chưa chính xác.
Trước tiên, cần phải khẳng định một điều mà dường như người ta, kể cả NHNN, đã vô tình hoặc hữu ý “quên” một thực tế rằng, lãi suất thực ra đã được (bị) giảm một cách bắt buộc, khiên cưỡng. Điều này thể hiện chính ở việc áp dụng trần lãi suất huy động nhằm cố gắng kéo tụt mặt bằng lãi suất nói chung xuống trong bối cảnh NHNN không muốn sử dụng các công cụ tiền tệ của mình để giảm lãi suất (bằng cách tăng cung tiền) vì nỗi lo ngại lạm phát sẽ quay trở lại ngay. Và thực tế là trước khi áp dụng trần lãi suất huy động 14%/năm, lãi suất huy động đã được các ngân hàng đua nhau đẩy cao lên trên 20%/năm tùy kỳ hạn và số tiền gửi, bất chấp “đồng thuận” của các ngân hàng dưới bàn tay đạo diễn của NHNN giảm lãi suất huy động về 14%.
Chỉ sau khi NHNN quá “sốt ruột” với tình trạng “đồng thuận” một đằng, làm một nẻo của các ngân hàng thương mại nên mới ra mặt dùng quyền lực của mình thẳng thừng áp đặt trần lãi suất huy động 14%/năm. Lãi suất huy động ngay lập tức tụt xuống mức này trên danh nghĩa (chứ trên thực tế thì khác). Do đó, ở khía cạnh này, có thể nói lãi suất thực ra đã được (bị) NHNN làm cho giảm đi, ít nhất là đối với lãi suất huy động, chứ không phải là chưa (được) giảm như mọi người vẫn quan niệm.
Điều đáng nói là dư luận nói chung và các nhóm lợi ích nói riêng lại đòi hỏi lãi suất phải hạ thấp hơn nữa, bằng cách yêu cầu NHNN hạ trần lãi suất huy động xuống dưới 14% (dự kiến là 12%). Đến đây, vấn đề đã rắc rối, khó chữa lại càng trở nên rắc rối, khó chữa hơn.
Như đã nói ở trên, ngay cả lãi suất trần 14%/năm cũng đã tỏ ra là quá thấp không khuyến khích được tiền gửi, buộc các ngân hàng trước đó và hiện nay vẫn liều mình bất chấp sự giám sát và đe dọa trừng phạt của NHNN để mời chào tiền gửi với lãi suất cao như cũ (trên 20%). Nếu NHNN không muốn nới lỏng cung tiền để cứu trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng (với cái giá phải trả là lạm phát tái hồi) thì NHNN cần phải khôn ngoan hơn bằng cách nhanh chóng dỡ bỏ trần lãi suất huy động, tạo điều kiện để các ngân hàng nâng lãi suất huy động mang tính cạnh tranh nhằm cứu thanh khoản cho chính mình và cho cả hệ thống ngân hàng nói chung. Nếu giả thiết NHNN lại hạ thấp hơn nữa trần lãi suất xuống 12%, chắc chắn tình trạng vượt rào lãi suất càng diễn ra quyết liệt.
Chừng nào mà thanh khoản của hệ thống ngân hàng được cải thiện rõ rệt nhờ tự do hóa lãi suất (huy động), các hậu quả đi kèm với khó khăn thanh khoản nêu ở trên sẽ được khắc phục dần dần, và lãi suất cho vay vì thế cũng sẽ giảm nhiệt.
Ở đây, cần chú ý một điều là dư luận dường như đồng tình ở chỗ: NHNN nên áp dụng trần lãi suất cho vay, coi đây là phương cách giảm lãi suất cho vay nhanh nhất. Tuy nhiên, điều nguy hiểm của trần lãi suất cho vay là ở chỗ, ngoài chuyện các ngân hàng vẫn dễ dàng lách luật được như đối với trần lãi suất huy động, việc cho vay với lãi suất bị khống chế (thực chất là lãi suất thấp hơn mức thị trường đòi hỏi) sẽ càng đẩy hệ thống ngân hàng vào khó khăn về thanh khoản khi đầu vào bị hạn chế (tiền gửi sụt giảm khi có mặt của trần lãi suất huy động, hoặc nếu không có trần lãi suất huy động thì ngân hàng thương mại phải trả lãi suất huy động cao gần bằng hoặc hơn cả trần lãi suất cho vay; còn NHNN thì hạn chế bơm thêm tiền để giúp hệ thống ngân hàng). Tình trạng này còn tệ hại hơn cả tình trạng doanh nghiệp phải đi vay với lãi suất cao, vì trong trường hợp này, ngoài doanh nghiệp, sẽ có thêm cả khối ngân hàng cũng bị “ngắc ngoải”.
Tóm lại, để giảm lãi suất thì điều tưởng như nghịch lý là trước tiên vẫn phải tăng hoặc duy trì lãi suất (cả huy động và cho vay) ở mức cao. Khi lãi suất ở mức cao, lạm phát và kỳ vọng lạm phát sẽ giảm đi. Ngoài ra, lãi suất cao (cả huy động và cho vay) sẽ giải quyết được vấn đề khó khăn thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Một khi các điều kiện cần và đủ để hạ lãi suất, theo cách nói của Thống đốc và cách hiểu của nhiều người, được thỏa mãn thì lãi suất (cho vay và huy động) sẽ tự động giảm đi. Hiểu được như vậy rồi thì cần phải xóa bỏ ngay trần lãi suất huy động và không được áp dụng trần lãi suất cho vay. Đây mới chính là con đường an toàn nhất và ngắn nhất dẫn đến hạ lãi suất, chứ không phải là việc tái cấu trúc các ngân hàng yếu kém (thực chất chỉ là sự ghép cơ học chúng lại với nhau) như NHNN đã và đang chủ trương đẩy mạnh thực hiện, với mục đích như tuyên bố là giải quyết khó khăn thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, coi đó là điều kiện đủ để hạ lãi suất.
Friday, 27 January 2012
Friday, 13 January 2012
Những tín hiệu tốt lành (Dang tren Dai bieu Nhan dan)
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=235523
07:41 | 14/01/2012
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình đã đặt dấu chấm hết cho cuộc tranh cãi chính sách tiền tệ của NHNN sẽ đi về đâu, nên như thế nào trong năm nay. Đây chính là cơ sở để chúng ta dự cảm một triển vọng đáng an tâm hơn cho nền kinh tế Việt Nam so với thời điểm mới vài ngày trước đây, thay cho hàng ngàn phân tích, dự đoán đến từ khắp nơi cho đến nay.
Đã lâu lắm rồi chúng ta mới lại được nghe những lời phát biểu cần thiết và có trách nhiệm của những người có trách nhiệm đến vận mệnh kinh tế của đất nước.
Trong cuộc đối thoại trực tuyến với nhân dân qua Cổng thông tin điện tử Chính phủ sáng 12.1, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình, cho rằng, dù lạm phát trong 5 tháng cuối cùng của năm 2011 đều có mức thấp dưới 1%, nhưng đây chỉ là điều kiện cần. Để giảm lãi suất, cần phải hội tụ thêm nhiều yếu tố khác nữa. Bởi vậy, ít nhất trong 6 tháng đầu năm 2012, NHNN sẽ theo dõi sát sao tình hình và nếu có cơ hội thì mới thực thi việc giảm lãi suất được. Do đó, trần lãi suất 14% vẫn sẽ được giữ nguyên.
Và dường như Thống đốc Bình cũng là người lần đầu tiên (và là lần đầu tiên của ông) nói một cách thẳng thắn và công khai rằng: “Doanh nghiệp thiếu tiền thì kêu ngân hàng (ý nói đến chuyện kêu ca rằng lãi suất cho vay cao và khó vay được vốn ngân hàng), nhưng đôi khi doanh nghiệp cũng phải nhìn nhận lại bản thân. Nếu doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh thì lãi suất ngân hàng lên đến 25% vẫn không có vấn đề gì đáng ngại”.
Giải thích rõ hơn, ông nói: “Nếu doanh nghiệp có 2/3 vốn, 1/3 còn lại từ ngân hàng với lãi suất 25%/năm thì doanh nghiệp bình thường cũng quay vòng được vốn 3, 4 lần. Với lợi nhuận của mỗi vòng quay nhân với 3, 4 lần thì doanh nghiệp thừa sức trả được lãi suất cho ngân hàng, không những duy trì mà còn phát triển được sản xuất. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, vốn vay từ ngân hàng của doanh nghiệp chiếm tới 80- 90%, nên khi thắt chặt tín dụng là gặp khó khăn”.
Với lời đáp ngắn gọn này, hẳn nhiên Thống đốc đã thẳng tay quẳng vào sọt rác lời kêu gọi rất “thống thiết” của không ít doanh nghiệp và các nhóm lợi ích đằng sau chúng về chuyện lãi suất cho vay cao (20% hoặc hơn) thì doanh nghiệp không thể làm gì để kiếm đủ lợi nhuận trả lãi vay ngân hàng, và, vì thế, không thể sống sót nổi. Và như vậy, ông cũng không có ý định mù quáng hạ lãi suất để cứu tất cả các doanh nghiệp, dù lành mạnh về tài chính hay không.
Phải nhìn nhận rằng để đến được với thông điệp trên, Thống đốc đã vượt qua được áp lực chống đối mạnh mẽ của một số nhóm lợi ích vận động hành lang ở khắp nơi có thể đòi NHNN phải hạ ngay lãi suất nói chung và lãi suất huy động vốn nói riêng, bằng việc nới lỏng trần lãi suất huy động (trước đây dự kiến từ 14%/năm xuống 12%/năm ngay trong tháng 12.2011).
Những nhóm lợi ích trên dường như tồn tại ngay trong bản thân NHNN vì dư luận cho rằng NHNN sắp hạ trần lãi suất hình như cũng xuất phát từ đây. Đó là chưa kể không hiếm quan chức cũng lên tiếng đòi phải hạ lãi suất để “cứu” sản xuất kinh doanh. Tất nhiên, ta cũng không thể loại trừ khả năng ngay chính bản thân Thống đốc Bình cũng đã từng nghĩ và muốn làm như thế.
Nhưng cho dù tình huống trước đây có thế nào chăng nữa thì cũng cần thấy thông điệp rõ ràng trên của ông Bình là điều hết sức đáng mừng, đánh dấu một sự chuyển biến lớn trong nhận thức và hành động nghiêng hẳn về lợi ích của cả nền kinh tế thay vì cho một số nhóm lợi ích đầy ảnh hưởng vẫn thường diễn ra như trước đây và hiện nay.
Với thông điệp trên, Thống đốc Bình đã đặt dấu chấm hết cho cuộc tranh cãi chính sách tiền tệ của NHNN sẽ đi về đâu, nên như thế nào trong năm nay. Đây chính là cơ sở để chúng ta dự cảm một triển vọng đáng an tâm hơn cho nền kinh tế Việt Nam so với thời điểm mới vài ngày trước đây, thay cho hàng ngàn phân tích, dự đoán đến từ khắp nơi cho đến nay.
Không còn mối nguy bị lái theo giọng điệu chủ quan, áp đặt, nhưng hời hợt về kiến thức, khả năng suy nghĩ của một số nhân vật có thế lực khi cho rằng lạm phát đã có dấu hiệu giảm nhiệt từ nửa cuối năm ngoái nên hoàn toàn có thể và cần thiết phải hạ lãi suất (cho vay và huy động), triển vọng ổn định kinh tế vĩ mô năm nay vì thế sẽ ít nhất sẽ bớt đi được một bất trắc về lạm phát, với rủi ro lạm phát tái hồi đã giảm thiểu do lãi suất không bị hạ xuống quá sớm, quá bất cẩn.
Nhưng cần nhấn mạnh rằng điều trên (bớt rủi ro lạm phát tái hồi) chỉ xảy ra khi và chỉ khi NHNN thật sự chân thành, nghiêm túc và (đủ quyền lực để) trung thành được với chính chính sách của mình như trong phát biểu của Thống đốc Bình. Chúng ta quả thật không muốn nghĩ đến và phải chứng kiến khả năng xấu sẽ xảy ra như đối với nhiều chủ trương, chính sách khác của Chính phủ, của NHNN.
07:41 | 14/01/2012
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình đã đặt dấu chấm hết cho cuộc tranh cãi chính sách tiền tệ của NHNN sẽ đi về đâu, nên như thế nào trong năm nay. Đây chính là cơ sở để chúng ta dự cảm một triển vọng đáng an tâm hơn cho nền kinh tế Việt Nam so với thời điểm mới vài ngày trước đây, thay cho hàng ngàn phân tích, dự đoán đến từ khắp nơi cho đến nay.
Đã lâu lắm rồi chúng ta mới lại được nghe những lời phát biểu cần thiết và có trách nhiệm của những người có trách nhiệm đến vận mệnh kinh tế của đất nước.
Trong cuộc đối thoại trực tuyến với nhân dân qua Cổng thông tin điện tử Chính phủ sáng 12.1, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình, cho rằng, dù lạm phát trong 5 tháng cuối cùng của năm 2011 đều có mức thấp dưới 1%, nhưng đây chỉ là điều kiện cần. Để giảm lãi suất, cần phải hội tụ thêm nhiều yếu tố khác nữa. Bởi vậy, ít nhất trong 6 tháng đầu năm 2012, NHNN sẽ theo dõi sát sao tình hình và nếu có cơ hội thì mới thực thi việc giảm lãi suất được. Do đó, trần lãi suất 14% vẫn sẽ được giữ nguyên.
Và dường như Thống đốc Bình cũng là người lần đầu tiên (và là lần đầu tiên của ông) nói một cách thẳng thắn và công khai rằng: “Doanh nghiệp thiếu tiền thì kêu ngân hàng (ý nói đến chuyện kêu ca rằng lãi suất cho vay cao và khó vay được vốn ngân hàng), nhưng đôi khi doanh nghiệp cũng phải nhìn nhận lại bản thân. Nếu doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh thì lãi suất ngân hàng lên đến 25% vẫn không có vấn đề gì đáng ngại”.
Giải thích rõ hơn, ông nói: “Nếu doanh nghiệp có 2/3 vốn, 1/3 còn lại từ ngân hàng với lãi suất 25%/năm thì doanh nghiệp bình thường cũng quay vòng được vốn 3, 4 lần. Với lợi nhuận của mỗi vòng quay nhân với 3, 4 lần thì doanh nghiệp thừa sức trả được lãi suất cho ngân hàng, không những duy trì mà còn phát triển được sản xuất. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, vốn vay từ ngân hàng của doanh nghiệp chiếm tới 80- 90%, nên khi thắt chặt tín dụng là gặp khó khăn”.
Với lời đáp ngắn gọn này, hẳn nhiên Thống đốc đã thẳng tay quẳng vào sọt rác lời kêu gọi rất “thống thiết” của không ít doanh nghiệp và các nhóm lợi ích đằng sau chúng về chuyện lãi suất cho vay cao (20% hoặc hơn) thì doanh nghiệp không thể làm gì để kiếm đủ lợi nhuận trả lãi vay ngân hàng, và, vì thế, không thể sống sót nổi. Và như vậy, ông cũng không có ý định mù quáng hạ lãi suất để cứu tất cả các doanh nghiệp, dù lành mạnh về tài chính hay không.
Phải nhìn nhận rằng để đến được với thông điệp trên, Thống đốc đã vượt qua được áp lực chống đối mạnh mẽ của một số nhóm lợi ích vận động hành lang ở khắp nơi có thể đòi NHNN phải hạ ngay lãi suất nói chung và lãi suất huy động vốn nói riêng, bằng việc nới lỏng trần lãi suất huy động (trước đây dự kiến từ 14%/năm xuống 12%/năm ngay trong tháng 12.2011).
Những nhóm lợi ích trên dường như tồn tại ngay trong bản thân NHNN vì dư luận cho rằng NHNN sắp hạ trần lãi suất hình như cũng xuất phát từ đây. Đó là chưa kể không hiếm quan chức cũng lên tiếng đòi phải hạ lãi suất để “cứu” sản xuất kinh doanh. Tất nhiên, ta cũng không thể loại trừ khả năng ngay chính bản thân Thống đốc Bình cũng đã từng nghĩ và muốn làm như thế.
Nhưng cho dù tình huống trước đây có thế nào chăng nữa thì cũng cần thấy thông điệp rõ ràng trên của ông Bình là điều hết sức đáng mừng, đánh dấu một sự chuyển biến lớn trong nhận thức và hành động nghiêng hẳn về lợi ích của cả nền kinh tế thay vì cho một số nhóm lợi ích đầy ảnh hưởng vẫn thường diễn ra như trước đây và hiện nay.
Với thông điệp trên, Thống đốc Bình đã đặt dấu chấm hết cho cuộc tranh cãi chính sách tiền tệ của NHNN sẽ đi về đâu, nên như thế nào trong năm nay. Đây chính là cơ sở để chúng ta dự cảm một triển vọng đáng an tâm hơn cho nền kinh tế Việt Nam so với thời điểm mới vài ngày trước đây, thay cho hàng ngàn phân tích, dự đoán đến từ khắp nơi cho đến nay.
Không còn mối nguy bị lái theo giọng điệu chủ quan, áp đặt, nhưng hời hợt về kiến thức, khả năng suy nghĩ của một số nhân vật có thế lực khi cho rằng lạm phát đã có dấu hiệu giảm nhiệt từ nửa cuối năm ngoái nên hoàn toàn có thể và cần thiết phải hạ lãi suất (cho vay và huy động), triển vọng ổn định kinh tế vĩ mô năm nay vì thế sẽ ít nhất sẽ bớt đi được một bất trắc về lạm phát, với rủi ro lạm phát tái hồi đã giảm thiểu do lãi suất không bị hạ xuống quá sớm, quá bất cẩn.
Nhưng cần nhấn mạnh rằng điều trên (bớt rủi ro lạm phát tái hồi) chỉ xảy ra khi và chỉ khi NHNN thật sự chân thành, nghiêm túc và (đủ quyền lực để) trung thành được với chính chính sách của mình như trong phát biểu của Thống đốc Bình. Chúng ta quả thật không muốn nghĩ đến và phải chứng kiến khả năng xấu sẽ xảy ra như đối với nhiều chủ trương, chính sách khác của Chính phủ, của NHNN.
Friday, 6 January 2012
Có nên bảo hiểm đối với tiền gửi ngoại tệ? (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=234766
08:10 | 07/01/2012
Đóng góp vào dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG), một số người ủng hộ dự án luật rằng chỉ bảo hiểm đối với tiền gửi bằng VND, với luận điểm chính là chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam cấm sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam và không khuyến khích người dân tích trữ ngoại tệ mà nên bán lại cho ngân hàng. Vì vậy, quy định chỉ BHTG đối với VND nhằm mục đích quản lý ngoại hối, quản lý tỷ giá và tiến tới mục tiêu lâu dài chỉ sử dụng tiền đồng Việt Nam. Một trong số những người ủng hộ dự luật còn nhấn mạnh rằng thông lệ quốc tế cũng không có nước nào bảo hiểm tiền ngoại tệ cả.
Trong khi đó, có nhiều người hơn ủng hộ BHTG ngoại tệ và kim loại quý, với chất vấn rằng trong khi lượng ngoại tệ, vàng trong dân vẫn rất nhiều, sao không tận dụng để hút số tài sản này vào ngân hàng, để làm một kênh quản lý tốt hơn là để trôi nổi? Hơn nữa, họ lập luận rằng, do trên thực tế, dù là VND hay ngoại tệ, vàng đối với người gửi tiền đều là tài sản có giá trị như nhau, nên giải thích việc quy định như dự thảo luật không ảnh hưởng tới quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người dân là không thuyết phục.
Để đi đến kết luận liệu có nên bảo hiểm đối với tiền gửi ngoại tệ và kim loại quý hay không, trong bài này chúng ta bắt đầu từ mục đích chính của bảo hiểm đối với tiền gửi nói chung. BHTG được coi là một trong những công cụ an toàn tài chính để giảm thiểu khả năng xảy ra khủng hoảng hệ thống ngân hàng và những hậu quả to lớn của chúng lên nền kinh tế và ngân sách nhà nước. Nhờ có BHTG, rủi ro của một cuộc hoảng loạn tài chính bất ngờ có khả năng châm ngòi cho cơn rút tiền ào ạt dẫn đến mất khả năng thanh toán ngân hàng sẽ được giảm thiểu hoặc loại bỏ.
Ngoài mục đích ổn định khu vực tài chính, BHTG còn phục vụ một số mục đích khác như bảo vệ người gửi tiền quy mô nhỏ và tạo điều kiện để ngân hàng nhỏ cạnh tranh được với ngân hàng lớn khi rủi ro đổ vỡ của ngân hàng nhỏ đã được bảo hiểm, làm người dân yên tâm gửi tiền ở những ngân hàng nhỏ này. Với những mục đích như vậy, BHTG ở nhiều nước còn bao phủ không chỉ BHTG VND mà còn cả ngoại tệ. Thậm chí, con số các nước áp dụng BHTG ngoại tệ còn lớn áp đảo so với con số các nước không áp dụng. Đây là một thực tế khác hoàn toàn với nhận định của một số người rằng không có nước nào trên thế giới BHTG ngoại tệ. Trong một nghiên cứu của WB năm 2004, tính đến năm 2003 có 61 nước trong tổng số 93 nước trong phạm vi nghiên cứu có báo cáo rằng họ có BHTG ngoại tệ. Ngay trong khu vực, trong khi một số nước như Thái Lan và Singapore thì không có loại hình bảo hiểm này, một số nước khác như Philippine và Malaysia thì lại có.
Lý do để một số nước không áp dụng BHTG ngoại tệ thường không được biết rõ, nhưng đôi lúc, khi được tuyên bố, thì lại rất đơn giản. Ví dụ như Singapore, họ cho rằng vì lượng tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước này là tương đối nhỏ so với nội tệ nên họ không áp dụng BHTG. Điều này, xét đến những mục đích thiết lập BHTG ngoại tệ như nói ở trên, tỏ ra là hợp lý, vì với khối lượng tiền gửi ngoại tệ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng tiền gửi của một nền kinh tế, khả năng mất thanh khoản của một ngân hàng nào đó lây lan ra toàn bộ hệ thống ngân hàng từ rủi ro khách hàng gửi ngoại tệ đổ xô đi rút tiền gửi ngoại tệ về là hầu như không có.
Như vậy, đối chiếu với Việt Nam, và xét đến hoàn cảnh lượng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm tới trên dưới 30% tổng khối lượng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng, nhu cầu BHTG ngoại tệ là có thật, để phòng tránh rủi ro của những cuộc đổ xô rút tiền gửi ngoại tệ khi có một biến cố nào đó. Với quy mô tiền gửi ngoại tệ (phản ánh mức độ đôla hóa của nền kinh tế) lớn như vậy thì khả năng giải quyết ổn thỏa, tránh một cuộc khủng hoảng ngân hàng khi không có bảo hiểm là khá mong manh. Lưu ý rằng, đây mới là lý do chính, đáng để lo ngại và đáng để xem xét liệu có nên áp dụng bảo hiểm hay không, thay vì những lý do khác như bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp của người gửi tiền hoặc để thu hút ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng v.v... như nói ở trên.
Nói cách khác, trong hoàn cảnh nạn đôla hóa vẫn còn tương đối trầm trọng, cũng như sự tồn tại và thống trị của quan niệm cần thu hút ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, thì Việt Nam cần phải xem xét áp dụng bảo hiểm cho cả tiền gửi ngoại tệ với mục đích chính là phòng rủi ro mất thanh khoản hệ thống ngân hàng khi có biến cố người gửi tiền ngoại tệ đổ xô rút tiền.
Chỉ khi nào Việt Nam thi hành (được) triệt để chính sách giảm nạn đôla hóa bằng cách không khuyến khích người dân nắm giữ tài sản bằng ngoại tệ, kể cả dưới dạng tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, làm giảm thiểu tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ trong tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng thì lúc đó mới không cần thiết áp dụng BHTG ngoại tệ. Ngay cả lúc đó, cần thay đổi quan niệm rằng thu hút tiền gửi ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng cũng là để giảm nạn đôla hóa, đơn giản vì khái niệm đôla hóa không phải là như vậy.
Ngoài ra, khi áp dụng BHTG ngoại tệ, điều cần lưu ý là chỉ nên bảo hiểm cho ngoại tệ, chứ không phải là kim loại quý như vàng, bạc... Một phần vì việc xác định giá trị của những loại tài sản này là khá phức tạp, tăng thêm chi phí và thời gian giao dịch. Hơn nữa, vì những kim loại này xét về mặt nào đó cũng là ngoại tệ nên người gửi hoàn toàn có thể quy chúng ra ngoại tệ để gửi vào ngân hàng, nhờ đó giảm thiểu chi phí và thời gian cho các bên liên quan.
08:10 | 07/01/2012
Đóng góp vào dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG), một số người ủng hộ dự án luật rằng chỉ bảo hiểm đối với tiền gửi bằng VND, với luận điểm chính là chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam cấm sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam và không khuyến khích người dân tích trữ ngoại tệ mà nên bán lại cho ngân hàng. Vì vậy, quy định chỉ BHTG đối với VND nhằm mục đích quản lý ngoại hối, quản lý tỷ giá và tiến tới mục tiêu lâu dài chỉ sử dụng tiền đồng Việt Nam. Một trong số những người ủng hộ dự luật còn nhấn mạnh rằng thông lệ quốc tế cũng không có nước nào bảo hiểm tiền ngoại tệ cả.
Trong khi đó, có nhiều người hơn ủng hộ BHTG ngoại tệ và kim loại quý, với chất vấn rằng trong khi lượng ngoại tệ, vàng trong dân vẫn rất nhiều, sao không tận dụng để hút số tài sản này vào ngân hàng, để làm một kênh quản lý tốt hơn là để trôi nổi? Hơn nữa, họ lập luận rằng, do trên thực tế, dù là VND hay ngoại tệ, vàng đối với người gửi tiền đều là tài sản có giá trị như nhau, nên giải thích việc quy định như dự thảo luật không ảnh hưởng tới quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người dân là không thuyết phục.
Để đi đến kết luận liệu có nên bảo hiểm đối với tiền gửi ngoại tệ và kim loại quý hay không, trong bài này chúng ta bắt đầu từ mục đích chính của bảo hiểm đối với tiền gửi nói chung. BHTG được coi là một trong những công cụ an toàn tài chính để giảm thiểu khả năng xảy ra khủng hoảng hệ thống ngân hàng và những hậu quả to lớn của chúng lên nền kinh tế và ngân sách nhà nước. Nhờ có BHTG, rủi ro của một cuộc hoảng loạn tài chính bất ngờ có khả năng châm ngòi cho cơn rút tiền ào ạt dẫn đến mất khả năng thanh toán ngân hàng sẽ được giảm thiểu hoặc loại bỏ.
Ngoài mục đích ổn định khu vực tài chính, BHTG còn phục vụ một số mục đích khác như bảo vệ người gửi tiền quy mô nhỏ và tạo điều kiện để ngân hàng nhỏ cạnh tranh được với ngân hàng lớn khi rủi ro đổ vỡ của ngân hàng nhỏ đã được bảo hiểm, làm người dân yên tâm gửi tiền ở những ngân hàng nhỏ này. Với những mục đích như vậy, BHTG ở nhiều nước còn bao phủ không chỉ BHTG VND mà còn cả ngoại tệ. Thậm chí, con số các nước áp dụng BHTG ngoại tệ còn lớn áp đảo so với con số các nước không áp dụng. Đây là một thực tế khác hoàn toàn với nhận định của một số người rằng không có nước nào trên thế giới BHTG ngoại tệ. Trong một nghiên cứu của WB năm 2004, tính đến năm 2003 có 61 nước trong tổng số 93 nước trong phạm vi nghiên cứu có báo cáo rằng họ có BHTG ngoại tệ. Ngay trong khu vực, trong khi một số nước như Thái Lan và Singapore thì không có loại hình bảo hiểm này, một số nước khác như Philippine và Malaysia thì lại có.
Lý do để một số nước không áp dụng BHTG ngoại tệ thường không được biết rõ, nhưng đôi lúc, khi được tuyên bố, thì lại rất đơn giản. Ví dụ như Singapore, họ cho rằng vì lượng tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước này là tương đối nhỏ so với nội tệ nên họ không áp dụng BHTG. Điều này, xét đến những mục đích thiết lập BHTG ngoại tệ như nói ở trên, tỏ ra là hợp lý, vì với khối lượng tiền gửi ngoại tệ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng tiền gửi của một nền kinh tế, khả năng mất thanh khoản của một ngân hàng nào đó lây lan ra toàn bộ hệ thống ngân hàng từ rủi ro khách hàng gửi ngoại tệ đổ xô đi rút tiền gửi ngoại tệ về là hầu như không có.
Như vậy, đối chiếu với Việt Nam, và xét đến hoàn cảnh lượng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm tới trên dưới 30% tổng khối lượng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng, nhu cầu BHTG ngoại tệ là có thật, để phòng tránh rủi ro của những cuộc đổ xô rút tiền gửi ngoại tệ khi có một biến cố nào đó. Với quy mô tiền gửi ngoại tệ (phản ánh mức độ đôla hóa của nền kinh tế) lớn như vậy thì khả năng giải quyết ổn thỏa, tránh một cuộc khủng hoảng ngân hàng khi không có bảo hiểm là khá mong manh. Lưu ý rằng, đây mới là lý do chính, đáng để lo ngại và đáng để xem xét liệu có nên áp dụng bảo hiểm hay không, thay vì những lý do khác như bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp của người gửi tiền hoặc để thu hút ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng v.v... như nói ở trên.
Nói cách khác, trong hoàn cảnh nạn đôla hóa vẫn còn tương đối trầm trọng, cũng như sự tồn tại và thống trị của quan niệm cần thu hút ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, thì Việt Nam cần phải xem xét áp dụng bảo hiểm cho cả tiền gửi ngoại tệ với mục đích chính là phòng rủi ro mất thanh khoản hệ thống ngân hàng khi có biến cố người gửi tiền ngoại tệ đổ xô rút tiền.
Chỉ khi nào Việt Nam thi hành (được) triệt để chính sách giảm nạn đôla hóa bằng cách không khuyến khích người dân nắm giữ tài sản bằng ngoại tệ, kể cả dưới dạng tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, làm giảm thiểu tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ trong tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng thì lúc đó mới không cần thiết áp dụng BHTG ngoại tệ. Ngay cả lúc đó, cần thay đổi quan niệm rằng thu hút tiền gửi ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng cũng là để giảm nạn đôla hóa, đơn giản vì khái niệm đôla hóa không phải là như vậy.
Ngoài ra, khi áp dụng BHTG ngoại tệ, điều cần lưu ý là chỉ nên bảo hiểm cho ngoại tệ, chứ không phải là kim loại quý như vàng, bạc... Một phần vì việc xác định giá trị của những loại tài sản này là khá phức tạp, tăng thêm chi phí và thời gian giao dịch. Hơn nữa, vì những kim loại này xét về mặt nào đó cũng là ngoại tệ nên người gửi hoàn toàn có thể quy chúng ra ngoại tệ để gửi vào ngân hàng, nhờ đó giảm thiểu chi phí và thời gian cho các bên liên quan.
Subscribe to:
Posts (Atom)
Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ
(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).