Bất chấp nền kinh tế kết thúc năm 2012 với những kết quả được ca ngợi là thành công, Việt Nam vẫn phải đang đối mặt với thâm hụt ngân sách đáng kể, nợ nước ngoài tiếp tục tăng, đầu tư giảm sút, và VND thậm chí còn lên giá so với USD (kể cả danh nghĩa) trong khi lạm phát vẫn ở mức cao, mặc dù đã giảm mạnh so với năm 2011. Ở cấp độ vi mô, các doanh nghiệp Việt Nam được/tự báo cáo những khó khăn chồng chất như lãi suất đi vay vẫn ở mức cao quá sức chịu đựng của doanh nghiệp, trong khi tồn kho tiếp tục ở mức cao và nhu cầu nước ngoài không mấy khả quan trong cơn suy thoái toàn cầu, đã đẩy nhiều doanh nghiệp đến bước đường cùng.
Trong bối cảnh vĩ
mô và vi mô như trên, Việt Nam vẫn tham vọng đặt ra mục tiêu tăng trưởng lớn
hơn trong năm 2013 với lạm phát thấp hơn. Tiếc là, căn cứ vào những phát biểu của
các quan chức liên đới, dường như những mục tiêu này mang tính duy ý chí, mang
ý đồ chính trị nhiều hơn là có cơ sở thực tế. Thay vì nhìn nhận và xác định rõ đầu
tư từ khu vực kinh tế tư nhân là động cơ tăng trưởng bền vững, và cần tập trung
vào kích thích tăng trưởng đầu tư tư nhân thông qua cải thiện thị trường và môi
trường kinh doanh thì Chính phủ lại tiếp tục lệ thuộc vào chính sách tiền tệ và
tài khóa nới lỏng để đạt được mục đích tham vọng và mâu thuẫn này.
Tăng trưởng tương
đối nhanh của Việt Nam trong nhiều năm qua vốn đạt được nhờ vào sự can thiệp
sâu rộng của nhà nước, nhờ vào sự nới lỏng quá mức của chính sách tiền tệ và
chi tiêu công. Nhưng sự tăng trưởng này đi kèm với cái giá phải trả là các vấn
đề mang tính cơ cấu ngày càng trầm trọng hơn, bao gồm tính bất hiệu quả của nền
kinh tế (thể hiện ở tỷ trọng đầu tư trên GDP lớn), nợ công của chính quyền trung
ương và địa phương tăng nhanh, tỷ lệ nợ xấu cao trong hệ thống ngân hàng, sự
chèn lấn đầu tư tư nhân bởi đầu tư công, tín hiệu thị trường trong việc phân bổ
các nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế bị bóp méo nhờ các biện pháp ưu đãi, trợ
giá, trợ cấp, và bàn tay can thiệp ngày càng thô bạo và quyết liệt của nhà nước
vào nhiều mặt của nền kinh tế.
Mặc dù cuối cùng nhà
nước cũng đã xác định được “tái cấu trúc” nền kinh tế là điều sống còn cho sự
tăng trưởng bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới, nhưng những
biện pháp cải cách thể chế có ảnh hưởng đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân để biến khu vực này thành động lực tăng trưởng xem ra vẫn còn hời hợt,
hình thức. Trọng tâm tái cấu trúc nền kinh tế được tập trung vào 3 trụ cột, doanh
nghiệp nhà nước (DNNN), đầu tư công, và hệ thống ngân hàng. Nhưng nhìn chung,
thực chất “tái cấu trúc” ở đây chủ yếu được hiểu khá đơn giản và ấu trĩ là sự sắp
xếp lại mang tính cơ học, bỏ cái này, sát nhập cái kia. DNNN vẫn đã và đang được
lăm le tiếp tục coi là xương sống của, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,
và mọi biện pháp “tái cấu trúc”, nếu có, chỉ cốt nhằm củng cố được vai trò này,
và tất nhiên là gây tổn hại cho khu vực kinh tế tư nhân.
Công bằng mà nói,
“tái cấu trúc” DNNN trước đây và (lặp lại) gần đây cũng bao gồm một yếu tố tích
cực cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Đó là việc cổ phần hóa DNNN, biến
chúng thành doanh nghiệp mà nhà nước chỉ sở hữu một phần. Nhưng vì nhiều lý do
nên quá trình cổ phần hóa đã và đang diễn ra rất chậm chạp với, và góp phần dẫn
đến, nhiều nhiệm vụ dang dở, trong đó có việc giải quyết mối liên hệ nhằng nhịt
và quyền lợi đan xen giữa nhà nước và DNNN, sự độc quyền, sự lũng đoạn của các
nhóm lợi ích, tính phi cạnh tranh của DNNN, nâng cao chất lượng quản trị doanh
nghiệp, cải cách tài chính và luật lệ doanh nghiệp, cải cách hệ thống luật pháp
và thực thi luật pháp vốn là điều thiết yếu cho một nền kinh tế thị trường hoạt
động trơn tru.
Các nhóm lợi ích,
phi đối xứng thông tin, lạm quyền, coi thường pháp luật vẫn còn tràn lan trong
nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng tiêu cực thêm nữa đến sự hoạt động của nền kinh
tế thị trường và các quyết định của Chính phủ cũng như chi tiêu công.
Để tiếp tục con
đường tăng trưởng một cách bền vững, Việt Nam cần phải thiết lập một khuôn khổ
thể chế mang tính thị trường, mang
lại cơ hội bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực tài chính và kỹ thuật cho các
doanh nghiệp tư nhân như đối với các DNNN, tạo dựng một nền văn hóa khuyến
khích và tôn trọng kinh thương. Song song đó, DNNN cần phải được rút khỏi càng
nhiều càng tốt từ các lĩnh vực lẽ ra mang tính cạnh tranh nhưng lại thuộc độc
quyền của chúng (kể cả các lĩnh vực dịch vụ). Mặc dù bước đầu đã có chủ trương
giảm sự lũng đoạn của DNNN trong các lĩnh vực của nền kinh tế nhưng trên thực tế
vẫn còn tồn tại rất nhiều rào cản hạn chế đầu tư tư nhân thâm nhập vào các lĩnh
vực độc quyền của DNNN. Do đó, một trong những chính sách cần cho thời gian này
và sắp tới là thúc đẩy vốn tư nhân tham gia sâu hơn, rộng hơn vào quá trình tái
cấu trúc DNNN, đồng nghĩa với việc chấp nhận đánh mất vai trò “chủ đạo” của
DNNN trong nền kinh tế – một cải cách
quan trọng về mặt nhận thức và tư tưởng mà chính quyền dường như đang cố gắng
né tránh. Chính sách này cần thực hiện cả trong lĩnh vực ngân hàng, nơi cũng bị
chi phối bởi các ngân hàng quốc doanh, và là nơi mà, rất tiếc, công cuộc “tái
cơ cấu” lại đang đi ngược lại, với việc hình thành các ngân hàng quốc doanh lớn
hơn nhiều, mang tầm vóc khu vực và thế giới về quy mô.
No comments:
Post a Comment