Tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm chỉ tăng 5,52%, thấp hơn
nhiều so với mức tăng cùng kỳ năm 2015 (6,47%). Để đạt được tốc độ tăng trưởng
GDP cả năm là 6,7% thì tăng trưởng 6 tháng cuối năm phải đạt được 7,6%, một mức
rất cao trong bối cảnh hiện nay. Tuy vậy, trong báo cáo gửi tới Quốc hội, một mặt Chính phủ cho rằng khó
đạt được mục tiêu 6,7% tăng trưởng đã đề ra, nhưng mặt
khác lại khẳng định rằng mục tiêu này “vẫn có khả năng đạt được”.
Có một số lý
do để Chính phủ vẫn nhìn thấy khả năng đạt được mục tiêu tăng trưởng đầy tham
vọng như vậy trong nửa sau năm nay. Đó là những cải thiện trong tổng cầu và sức mua của thị
trường trong nước, tổng đầu tư toàn xã hội, trong đó đầu tư trực tiếp nước
ngoài tăng cao, sự phục hồi của công nghiệp chế biến và tăng trưởng cao của khu
vực dịch vụ...
Đồng thời, việc ký
kết và thực hiện các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới sẽ mang lại những
đột phá về đầu tư kinh doanh, mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh đang được các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo thực
hiện quyết liệt.
Về lý do có
sự cải thiện trong tổng cầu và sức mua của thị trường, không rõ báo cáo dựa vào
những căn cứ nào để đưa ra nhận định như vậy. Thông thường, có một mối liên hệ
rõ ràng giữa tăng trưởng GDP với các chỉ tiêu phản ánh sức mua cũng như tổng
cầu. Nhưng tăng trưởng 6 tháng đầu năm đã chậm hẳn lại so với cùng kỳ năm trước,
tức là thu nhập của người dân và doanh nghiệp cũng tăng chậm lại. Vì cái gốc đã
suy yếu như vậy nên khó có thể thuyết phục rằng tổng cầu và sức mua sẽ mạnh lên
trong nửa năm còn lại, do đó tăng trưởng nửa năm sau sẽ hứa hẹn đạt mức cao hơn
nhiều so với cùng kỳ năm trước.
Về lý do
tổng đầu tư toàn xã hội trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cao, cũng
tương tự như trên, nếu thực sự những nguồn vốn này đã tăng cao thì tăng trưởng
GDP nửa đầu năm sẽ phải khác đi nhiều. Ngoài ra, cũng chưa có cơ sở nào để tin
rằng các nguồn vốn này sẽ tiếp tục tăng mạnh hơn (nhiều) trong nửa năm còn lại
để thúc đẩy tăng trưởng GDP mạnh mẽ hơn nữa.
Với sự phục
hồi của công nghiệp chế biến, vấn đề đặt ra là sự phục hồi này có bền vững và
kéo dài sang hết nửa năm sau hay không? Một trong những yếu tố quan trọng quyết
định sự phục hồi của ngành công nghiệp chế biến chắc chắn sẽ là đầu ra xuất
khẩu. Nhưng thị trường xuất khẩu của ngành chế biến Việt Nam có tăng trưởng
mạnh hay không lại phụ thuộc vào nhu cầu của thế giới, vốn cũng là yếu tố lên
xuống bất thường, không thể kiểm soát và nói chắc được.
Sự tăng
trưởng của khu vực dịch vụ tuy có cao hơn cùng kỳ năm trước (6,35% so với
5,86%) nhưng cũng chưa phải là một sự bứt phá mạnh mẽ, và cũng chưa hứa hẹn sẽ
bứt phá mạnh mẽ hơn nữa trong nửa năm sau, vì du lịch và dịch vụ miền Trung,
nơi bị ảnh hưởng của sự cố ô nhiễm môi trường, nếu có hồi phục cũng chỉ diễn ra
từ từ và trong thời gian dài.
Việc ký kết
các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới tuy đã diễn ra nhưng chưa có hiệp
định mới, quan trọng nào như TPP và EVFTA sẽ có hiệu lực từ nửa năm cuối của
năm nay (các hiệp định khác như với Hàn Quốc thì đã có hiệu lực từ đầu năm).
Như vậy, kỳ vọng có những đột phá về đầu tư kinh doanh và mở rộng thị trường
xuất khẩu nhờ những hiệp định tự do thương mại nếu có thì cũng phải mất ít nhất
hàng năm nữa.
Việc cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh tuy đang được đốc thúc quyết liệt từ trên
xuống, nhưng để thay đổi được những bất cập đã ăn sâu thành gốc rễ trong hệ
thống chính quyền và nền hành chính từ trung ương đến địa phương chắc chắn
không phải là công việc một sớm một chiều, mà đòi hỏi thời gian nhiều năm. Vậy
thì nếu có thay đổi thì những thay đổi như vậy chỉ mang tính cục bộ, ở một vài
địa phương (ví dụ, thành phố Hồ Chí Minh, trong một vài địa hạt và lĩnh vực hạn
hẹp, nhờ dấu ấn cá nhân của Bí thư thành phố Đinh La Thăng). Do đó, cũng là quá
sớm để lạc quan rằng việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh này sẽ mang
lại ngay kết quả rõ rệt trong nửa năm còn lại.
Từ những
phân tích nêu trên, có thể thấy việc “thúc” tăng trưởng nửa năm còn lại hoặc là
không thể, hoặc là phải trả giá đắt nếu cứ nhắm mắt mà thực hiện. Tổng cầu và
sức mua có thể tăng vọt chỉ cần bằng cách in tiền. Nhưng cái giá phải trả sẽ là
lạm phát tăng vọt.
Sự phục hồi
của ngành công nghiệp và dịch vụ cũng có thể đạt bước nhảy vọt nếu ồ ạt ném
tiền đầu tư vào mở rộng sản xuất, tăng quy mô. Nhưng cái giá phải trả là hàng
hóa và dịch vụ sẽ dư thừa, không tiêu thụ được, hàng tồn kho tăng cao, xuất
hiện thêm các dự án “đắp chiếu”.
Vậy tăng
trưởng cả năm nay gần như chắc chắn sẽ không đạt được mục tiêu đề ra vì dư địa
còn lại và “an toàn” cho tăng trưởng chính là cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh, mà, như đã nói ở trên rằng việc này không thể diễn ra một sớm một chiều.
Chính phủ và
Quốc hội cần phải hiểu rõ những giới hạn trên để không biến mục tiêu tăng
trưởng 6,7% thành mồi lửa cho những bất ổn vĩ mô, những hậu quả to lớn và lâu
dài để lại cho nền kinh tế từ những quyết định sai lầm như đã xảy ra trong quá
khứ.
No comments:
Post a Comment