https://www.thesaigontimes.vn/296173/doanh-nghiep-fdi-len-san-dung-bien-binh-thuong-thanh-bat-thuong.html
Theo báo cáo, hiện
nay ở Việt Nam đã có một số doanh nghiệp FDI đã chuyển đổi thành công ty cổ phần
nhưng chưa có quy định pháp lý cụ thể về việc niêm yết/đăng ký giao dịch. Hiện
Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước mới chỉ làm được đến đoạn là “xin ý
kiến của các cơ quan, đơn vị liên quan” để sẽ “sớm trình Thủ tướng Chính phủ cơ
chế niêm yết/đăng ký giao dịch đối với doanh nghiệp FDI” (1).
Đồng thời, dù vẫn
chưa cho ra đời được cơ chế niêm yết/đăng ký nhưng Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước đã “lo xa” hơn khi “cũng sẽ có cơ chế phối hợp với Bộ Kế hoạch
và Đầu tư để thực hiện giám sát sau khi các doanh nghiệp FDI lên sàn”.
Do nghi ngờ?
Lý do của việc chậm
chễ, trì hoãn kéo dài, và tuy chưa làm được (chưa ban hành cơ chế niêm yết)
nhưng đã lo đến chuyện giám sát này có thể gói gọn trong hai chữ “nghi ngờ”!
Lý do trên có thể
được thấy rõ qua trường hợp cụ thể là công ty Seoul Metal Việt Nam (SMV). Theo
đó, “SMV được niêm yết cũng gây ra lo ngại cổ đông sáng lập bán cổ phiếu, nhà đầu
tư nước ngoài rút vốn” (2). Với những doanh nghiệp FDI khác đã niêm yết, thời
gian đầu thì kết quả tốt đẹp nhưng sau này thì thua lỗ, cổ phiếu rơi xuống dưới
mệnh giá, thậm chí bị hủy niêm yết..., đã có các giả thuyết đưa ra để giải
thích là do chuyển giá, trốn thuế, nhà đầu tư ngoại rút vốn khi doanh nghiệp
lên sàn... (1).
Tóm lại, viễn cảnh
doanh nghiệp FDI lên sàn rõ ràng không được ít nhất là “thị trường” nhìn nhận một
cách thiện cảm. Nếu có lên sàn thì họ sẽ bị nghi ngờ với những động cơ “không
trong sáng” và thậm chí sẽ phải chịu nhiều phiền phức, rủi ro sau niêm yết do
nhận được sự chú ý trên mức bình thường của cơ quan giám sát, xuất phát từ
thành kiến với họ.
“Ngoại” cũng (phải được coi) là “nội”
Nếu quả thực lý
do trên là nguyên nhân chính gây ra sự chậm chễ trong ban hành quy định và hướng
dẫn doanh nghiệp FDI niêm yết trên sàn chứng khoán thì đây là một điều rất đáng
tiếc và đáng trách, thể hiện một nhận thức hạn hẹp, sai lầm rất không phù hợp với
bối cảnh thời nay.
Trước hết, cần khẳng
định lại là mọi doanh nghiệp đăng ký và hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Việt
Nam, dù là có nguồn gốc FDI, phải được đối xử công bằng như nhau, đặc biệt
trong bối cảnh mà Việt Nam đã và đang ký kết các hiệp định tự do hóa thương mại
và đầu tư (FTA). Trên cái nghĩa này, nếu doanh nghiệp FDI vẫn còn đang bị đối xử
bất công ít nhất từ góc độ niêm yết trên sàn thì nghĩa vụ của Chính phủ là phải
lập tức xóa bỏ ngay các đối xử này, để doanh nghiệp FDI được niêm yết theo cách
áp dụng với các doanh nghiệp trong nước. Nếu không làm vậy thì hãy chuẩn bị
tinh thần để bị kiện cáo vì phân biết đối xử.
Đó là về pháp lý.
Còn về lý luận, việc niêm yết chẳng có liên quan gì đến những điều “xấu xí” mà
“thị trường” đang đặt ra cho các doanh nghiệp FDI (muốn) niêm yết. Muốn chuyển
giá/trốn thuế thì không cần phải đợi niêm yết mới thực hiện được (mà thậm chí
là ngược lại thì đúng hơn, bởi khi niêm yết thì doanh nghiệp phải minh bạch
thông tin). Hơn nữa, chẳng phải chỉ có doanh nghiệp FDI (niêm yết) mới có (xu
hướng) chuyển giá, trốn thuế, mà ngay cả doanh nghiệp nội cũng vậy. Thế nên nếu
lo ngại khi niêm yết, doanh nghiệp FDI sẽ trốn thuế/chuyển giá thì cùng một
logic, doanh nghiệp nội cũng nên bị cấm/không khuyến khích niêm yết. Và, nói
cho cùng, hiện cơ quan chức năng của Việt Nam đã “chỉ mặt” được mấy doanh nghiệp
FDI (chưa niêm yết) có hành vi chuyển giá/trốn thuế, hay mới chỉ dừng lại ở những
nghi vấn?
Chủ đầu tư nước
ngoài muốn thoái vốn thì cũng không cần phải đợi niêm yết mới thoái được, mà thậm
chí là ngược lại thì đúng hơn, bởi lúc đã niêm yết, khi cổ đông lớn muốn thoái
vốn thì phải thông báo, nên việc thoái vốn sau khi niêm yết có thể sẽ khó khăn
hơn do thị trường hiểu rằng công ty hoặc cổ đông lớn “có vấn đề”, và sẽ không
chấp nhận mua cổ phiếu doanh nghiệp, hoặc mua với giá không như cổ đông kỳ vọng.
Đừng “ngược dòng” một mình!
Xem ra quan niệm
tiêu cực về niêm yết của các doanh nghiệp FDI và hậu quả là sự chậm chễ trong
niêm yết của các doanh nghiệp này ở Việt Nam như nói trên là trường hợp hãn hữu
so với thế giới hiện nay. Nhìn chung, ở các nước khác, muốn niêm yết thì doanh
nghiệp, không phân biệt nội hay ngoại, phải và chỉ cần đáp ứng một số điều kiện
chung đặt ra bởi thị trường chứng khoán/sàn giao dịch của nơi mà doanh nghiệp
muốn niêm yết (thậm chí với những nước có nhiều hơn một sàn giao dịch, như ở Mỹ,
thì mỗi sàn giao dịch lại có một bộ các điều kiện khác nhau đối với việc niêm yết).
Ở Singapore, chỉ
có hai loại hình doanh nghiệp/công ty chính, gồm công ty tư nhân (private
company) và công ty đại chúng (public company). Công ty tư nhân có thể chọn chuyển
đổi thành công ty đại chúng và (sau đó) lên sàn nếu thấy việc chuyển đổi và lên
sàn có lợi cho mình hơn. Những lợi ích này gồm dễ gọi thêm vốn, làm tăng giá trị
nắm giữ, dễ dàng mua bán cổ phần hơn, dễ gây dựng uy tín/hình ảnh doanh nghiệp
hơn, dễ dùng cổ phiếu để mua bán, sáp nhập doanh nghiệp khác hơn... Ngược lại,
việc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp và niêm yết sẽ đi kèm với nhiều bất lợi,
gồm việc phải công khai thông tin, tốn thêm nhiều loại chi phí, dễ bị thôn
tính, chịu thêm các quy định và thủ tục...
Việc chuyển đổi
thành công ty đại chúng và/hoặc niêm yết phải thỏa mãn một số điều kiện và tuân
theo quy trình chung, thống nhất được quy định rõ ràng, công khai mà chẳng có
điều kiện nào áp dụng riêng cho doanh nghiệp (có nguồn gốc) FDI (3). Thậm chí một
doanh nghiệp tư nhân có thể bị bắt buộc phải chuyển đổi thành công ty đại chúng
khi cơ quan quản lý thấy rằng công ty đó không còn đáp ứng điều kiện để là công
ty tư nhân nữa (chẳng hạn như khi số lượng cổ đông của công ty vượt quá ngưỡng
quy định là 50). Khi đó, công ty muốn tiếp tục tồn tại và hoạt động thì phải
tuân theo quy định như áp dụng đối với công ty đại chúng.
Như vậy, nhìn rộng
ra thế giới thì việc “cổ phần hóa” (biến công ty tư nhân thành công ty đại
chúng, dù đó là một doanh nghiệp FDI như khái niệm đang được dùng ở Việt Nam)
và niêm yết chỉ là một việc hết sức bình thường mà khuôn khổ pháp luật cho nó cần
phải có, cần phải tạo dựng và áp dụng với mọi doanh nghiệp thích ứng, ngay khi
thị trường chứng khoán ra đời.
Trước một điều
bình thường, hiển nhiên và là một thông lệ trên thế giới như vậy, việc phân biệt
đối xử, chậm chễ, trì hoãn cho doanh nghiệp FDI sau “cổ phần hóa” ở Việt Nam
như hiện nay chẳng có bất cứ lý do gì để biện minh và kéo dài thêm.
(1) http://ndh.vn/som-co-co-che-dua-cac-doanh-nghiep-fdi-len-san-chung-khoan-20190712021346506p4c147.news
(2) http://ndh.vn/cua-nao-len-san-cho-doanh-nghiep-goc-fdi-nhin-tu-truong-hop-seoul-metal-viet-nam--2018062804357992p4c147.news
(3) https://www.3ecpa.com.sg/resources/finances-and-grants/going-for-public-listing-in-singapore
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ
(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
No comments:
Post a Comment