Không giống như ở
nhiều nước khác trên thế giới, nơi lạm phát nhìn chung đã đạt đỉnh và giảm nhiệt
dần (tuy vẫn đứng ở mức cao) từ một vài tháng trước, lạm phát của Việt Nam, như
được biểu hiện qua tốc độ tăng/giảm của chỉ số giá cả CPI bình quân 5 tháng đầu
năm nay so với năm trước, vẫn tiếp tục xu hướng tăng mạnh kể từ năm 2021 (3,55%
năm 2023, 2,25% năm 2022, và 1,29% năm 2021).
So với mức lạm
phát mục tiêu mà Quốc hội đề ra cho năm nay là 4,5% (đã tăng từ mức 4% đặt ra
cho năm 2022), và so với mức lạm phát thực tế đạt được trong năm 2022, 3,15%, việc
kiềm chế lạm phát dưới mức mục tiêu cho năm nay rõ ràng là không ít thách thức.
Cũng cần lưu ý rằng mức mục tiêu 4,5% của Việt Nam cũng cao hơn nhiều so với mức
tiêu chuẩn 2% mà nhiều nước đã và đang theo đuổi.
Trong khi đó,
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ đầu năm nay đã có xu hướng chững lại rõ rệt
sau khi đạt được mức tăng ấn tượng trong các quý của năm trước nhờ chấm dứt
giãn cách, phong tỏa trong dịch Covid. Kèm thêm những dấu hiệu kém tích cực có
thể quan sát, đong đếm được như tình trạng doanh nghiệp đóng cửa, chấm dứt hoạt
động tăng lên đáng kể, đơn hàng giảm sút, các cửa hàng ở các phố lớn đóng cửa,
việc sa thải diễn ra nhiều lên..., đã có nhiều tiếng nói yêu cầu tiếp tục giảm
lãi suất (nới lỏng chính sách tiền tệ), đi ngược lại với chiều hướng khó tránh
khỏi là phải tăng lãi suất để tiếp tục kiềm chế lạm phát vẫn đang có xu hướng
gia tăng.
Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) với tư cách là cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ, với sứ mệnh ổn định
giá cả và tài chính, quyết định mặt bằng lãi suất trong nước, đồng thời cũng có
tư cách là một bộ thuộc Chính phủ, chịu sự chi phối, tác động chính sách trực
tiếp từ (Thủ tướng) Chính phủ và gián tiếp từ các cơ quan, đoàn thể khác, vẫn
như thường lệ, đang chịu áp lực lớn từ các phía xung đột để đưa ra được một
chính sách tiền tệ với lãi suất khả dĩ đạt điểm cân bằng thỏa mãn cho tất cả các
bên. Nhiệm vụ của họ càng trở nên nan giải hơn nữa khi việc hoạch định chính
sách tiền tệ của mình còn phải “nhìn” sang cả chính sách tiền tệ của các ngân
hàng trung ương lớn trên thế giới.
Ảnh hưởng
từ các ngân hàng trung ương
Chính sách tiền tệ
của ngân hàng trung ương các nước lớn trên thế giới có thể tác động đến chính
sách tiền tệ của NHNN qua một số kênh, bao gồm lãi suất, tỷ giá, dòng vốn lưu
chuyển xuyên biên giới, ổn định tài chính, và điều phối chính sách.
Khi một ngân hàng
trung ương lớn như Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tại Mỹ điều chỉnh lãi suất chính
sách, nó có thể ảnh hưởng đến chi phí vay, quyết định đầu tư và kỳ vọng về lạm
phát trong nền kinh tế trong nước, từ đó ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ trong
nước.
Tương tự, các biện
pháp của ngân hàng trung ương, chẳng hạn như thay đổi lãi suất ở Mỹ hoặc can
thiệp vào thị trường ngoại hối như ở Nhật, có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái
tiền đồng. Sự biến động của tỷ giá hối đoái có tác động đến chính sách tiền tệ
trong nước bởi vì nó ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của xuất khẩu, giá nhập khẩu
và lạm phát, là những yếu tố phải tính đến trong hoạch định chính sách tiền tệ
của NHNN.
Ngoài ra, chính
sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn cũng có thể ảnh hưởng đến dòng vốn
giữa các quốc gia. Khi Fed thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, như giảm/ngừng
nới lỏng định lượng hoặc mua tài sản tư nhân (trái phiếu doanh nghiệp), nó có
thể làm tăng lãi suất và giảm cung tiền trong nền kinh tế. Điều này khiến cho
các nhà đầu tư chuyển sang tìm kiếm lợi suất cao ở Mỹ và có thể đảo ngược dòng
vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam. Khi đó, NHNN có thể sẽ phải xem xét điều chỉnh
chính sách của mình để quản lý tác động đảo chiều của dòng vốn ngoại lên nền kinh
tế trong nước.
Một kênh tác động
khác nữa là thông qua sự ổn định tài chính trong nước. Các động thái chính sách
thực hiện bởi các ngân hàng trung ương lớn có thể ảnh hưởng đến điều kiện tài
chính và tâm lý thị trường toàn cầu. Ví dụ, sự thay đổi chính sách tiền tệ, việc
cung cấp thanh khoản hoặc sự thực thi các quy định pháp lý bởi một ngân hàng
trung ương lớn có thể ảnh hưởng đến thị trường tài chính toàn cầu, bao gồm mức
cung tín dụng, giá tài sản, và niềm tin thị trường nói chung. Những diễn biến
này có thể ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ trong nước. Vì vậy, NHNN cần đánh
giá tác động của chúng lên hệ thống tài chính trong nước và điều chỉnh chính
sách một cách phù hợp để duy trì ổn định các thị trường tài chính trong nước.
Thực tại và xu
hướng chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn
Ngân hàng trung
ương của phần lớn các nước phát triển đã tăng thêm lãi suất chính sách của mình
để giảm áp lực lạm phát và giảm thiểu nguy cơ lạm phát vượt mức mục tiêu, dẫn đến
kỳ vọng giá cả và tiền lương sẽ được điều chỉnh cao hơn tương ứng. Mức lãi suất
chính sách được thị trường kỳ vọng đã giảm đáng kể vào tháng Ba khi xảy ra các
vụ đóng cửa một số ngân hàng ở Mỹ và Thụy Sĩ. Tuy nhiên, những lo ngại về căng
thẳng ngân hàng phổ biến đã giảm đi một phần sau phản ứng của các cơ quan quản
lý tài chính ở các quốc gia này. Do đó, lãi suất chính sách được thị trường kỳ
vọng đã tăng lên trở lại ở nhiều nền kinh tế phát triển, mặc dù vẫn thấp hơn so
với mức đã đạt được trong năm nay.
Sự định giá trên
các thị trường cho thấy lãi suất chính sách đã đạt hoặc ở gần ngưỡng cao nhất ở
hầu hết các nền kinh tế phát triển, và dự kiến lãi suất sẽ giảm trong một số nền
kinh tế trong nửa cuối năm nay. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng trung ương đã có
những động thái cho thấy lãi suất chính sách có thể cần được duy trì ở mức cao
trong một thời gian nữa để đảm bảo lạm phát trở lại mức mục tiêu.
Một số động thái
chính gần đây nhất của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới được liệt kê
như dưới đây.
· - Fed đã tăng mục tiêu cho lãi suất chính
sách của mình lên 5-5,25% sau hai cuộc họp vào tháng Ba và tháng Năm. Theo Fed,
họ sẽ đánh giá các dữ liệu mới và xem xét tác động trễ của việc siết chặt cho đến
nay để xác định mức độ siết chặt phù hợp.
· - Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã tăng
mức lãi suất chính sách thêm 50 điểm cơ bản lên 3% sau tại cuộc họp vào tháng
Ba, theo dự báo được đưa ra trong tháng Hai. ECB cho biết tương lai của lãi suất
chính sách sẽ phụ thuộc vào dữ liệu thực tế thu thập trong bối cảnh bất trắc
đang gia tăng.
· - Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) đã tăng mức
lãi suất chính sách thêm 25 điểm cơ bản lên 4,25% tại cuộc họp vào tháng Ba.
BoE cho biết sẽ siết chặt chính sách tiền tệ thêm nếu có bằng chứng về áp lực lạm
phát dai dẳng hơn.
· - Ngân hàng Trung ương Canada (BoC) đã giữ mức
lãi suất chính sách ổn định ở 4,5% trong cả hai cuộc họp vào tháng Ba và tháng
Tư. BoC cho biết sẵn sàng tăng mức lãi suất chính sách nếu cần thiết.
· - Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) đã giữ
nguyên mức lãi suất chính sách ở mức -0,1% trong cả hai cuộc họp vào tháng Ba
và tháng Tư và cho biết sẽ tiếp tục nới lỏng tiền tệ (qua mua tài sản) cho đến
khi lạm phát duy trì ổn định trên mức mục tiêu 2%.
· - Một số ngân hàng trung ương ở các nền kinh
tế phát triển khác như ở Thụy Điển, Thụy Sĩ, Nga, Hàn Quốc, và New Zealand cũng đều đã tăng mức lãi suất chính sách của
mình lên mức 1,5-5,25% trong các cuộc họp diễn ra từ tháng Hai đến tháng Tư.
· - Hầu hết các ngân hàng trung ương đã tiếp tục
giảm số lượng tài sản được mua theo chương trình nới lỏng định lượng. BoC cho
phép các trái phiếu đáo hạn mà không tái đầu tư, trong khi Fed tiếp tục tái đầu
tư một phần thu nhập từ trái phiếu đáo hạn. Vào tháng Ba, ECB đã bắt đầu giảm số
lượng trái phiếu bằng cách tái đầu tư một phần nhỏ. BoE tiếp tục bán các khoản
trái phiếu của mình. Ngân hàng Trung ương Thụy Điển gần đây đã bắt đầu bán các
khoản trái phiếu chính phủ có thời hạn dài, bên cạnh việc cho phép các tài sản
khác đáo hạn mà không tái đầu tư. BoJ hiện là ngân hàng trung ương lớn duy nhất
vẫn đang tăng lượng trái phiếu mua sắm của mình.
Như vậy có thể thấy,
ngoại trừ BoJ, các ngân hàng trung ương lớn khác hầu như chỉ chú trọng đến kiềm
chế lạm phát và sẵn sàng tăng lãi suất chính sách hơn nữa nếu lạm phát vẫn vượt
xa mục tiêu, vẫn đứng ở mức cao dai dẳng dù có dịu đi so với mức đỉnh mấy tháng
trước đây.
NHNN có thể
làm được gì?
Kể cả trong kịch
bản thuận lợi, theo đó lạm phát thế giới giảm đi và các ngân hàng trung ương lớn
không phải tăng lãi suất thêm nữa thì việc để lạm phát trở lại mức mục tiêu 2% ở
các nước này sẽ là một chặng đường không hề ngắn. Do đó, lãi suất thế giới nhìn
chung sẽ vẫn đứng ở mức cao trong nửa năm cuối 2023 và sang đến ít nhất nửa năm
đầu 2024.
Ở trong nước,
NHNN đã “nhanh chân” hơn các đối tác nước ngoài của mình, lội ngược dòng trào
lưu tăng lãi suất chung trên thế giới bằng hai đợt hạ lãi suất cấp tập trong mấy
tháng qua. Hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân là lý do chủ yếu
cho các hành động chính sách này trong bối cảnh tỷ giá tiền đồng với đô la Mỹ
đã gia tăng trong mấy tháng gần đây.
Tuy nhiên, tỷ giá
tiền đồng tăng cũng là theo
xu hướng tăng chung của các đồng tiền châu Á và phần lớn các đồng tiền mạnh
khác trên thế giới khi đô la Mỹ suy yếu bởi lạm phát và tăng trưởng đều hạ nhiệt
tại Mỹ, chứ không hẳn là bởi từ các điều kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam.
Trong bối cảnh bất
định về triển vọng lạm phát và lập trường cứng rắn về kiềm chế lạm phát (thông
qua nâng/duy trì lãi suất chính sách cao) như là một ưu tiên chính sách hàng đầu
của các ngân hàng trung ương không chỉ ở Mỹ mà còn ở các nước phát triển, việc ổn
định tỷ giá tiền đồng bằng các yếu tố nội lực của nền kinh tế Việt Nam như dự
trữ ngoại hối, thặng dư thương mại, nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và
gián tiếp..., vốn đã ít nhiều bị thương tổn trong giai đoạn trong và hậu Covid,
sẽ là một thách thức lớn.
No comments:
Post a Comment