Friday 14 July 2023

Chính sách tiền tệ của Việt Nam dưới tác động chính sách của các ngân hàng trung ương trên thế giới (Bài đăng trên KTSG, 13/7/2023, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/chinh-sach-tien-te-viet-nam-duoi-tac-dong-cua-chinh-sach-tien-te-cac-nuoc-lon/?fbclid=IwAR04A5htk7_HsJVgSUQxsasOopaP85E0D_ppkHwGoTxW9SpDiwPFztUYX_8_aem_AWuBHT7o8-P7qudjQKXe06LKiOg2dxEBIh1gvpi8W5lEjn2KdcwY2Aj6l-yG0A8-g8Q

Không giống như ở nhiều nước khác trên thế giới, nơi lạm phát nhìn chung đã đạt đỉnh và giảm nhiệt dần (tuy vẫn đứng ở mức cao) từ một vài tháng trước, lạm phát của Việt Nam, như được biểu hiện qua tốc độ tăng/giảm của chỉ số giá cả CPI bình quân 5 tháng đầu năm nay so với năm trước, vẫn tiếp tục xu hướng tăng mạnh kể từ năm 2021 (3,55% năm 2023, 2,25% năm 2022, và 1,29% năm 2021). 

So với mức lạm phát mục tiêu mà Quốc hội đề ra cho năm nay là 4,5% (đã tăng từ mức 4% đặt ra cho năm 2022), và so với mức lạm phát thực tế đạt được trong năm 2022, 3,15%, việc kiềm chế lạm phát dưới mức mục tiêu cho năm nay rõ ràng là không ít thách thức. Cũng cần lưu ý rằng mức mục tiêu 4,5% của Việt Nam cũng cao hơn nhiều so với mức tiêu chuẩn 2% mà nhiều nước đã và đang theo đuổi.  

Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ đầu năm nay đã có xu hướng chững lại rõ rệt sau khi đạt được mức tăng ấn tượng trong các quý của năm trước nhờ chấm dứt giãn cách, phong tỏa trong dịch Covid. Kèm thêm những dấu hiệu kém tích cực có thể quan sát, đong đếm được như tình trạng doanh nghiệp đóng cửa, chấm dứt hoạt động tăng lên đáng kể, đơn hàng giảm sút, các cửa hàng ở các phố lớn đóng cửa, việc sa thải diễn ra nhiều lên..., đã có nhiều tiếng nói yêu cầu tiếp tục giảm lãi suất (nới lỏng chính sách tiền tệ), đi ngược lại với chiều hướng khó tránh khỏi là phải tăng lãi suất để tiếp tục kiềm chế lạm phát vẫn đang có xu hướng gia tăng.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với tư cách là cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ, với sứ mệnh ổn định giá cả và tài chính, quyết định mặt bằng lãi suất trong nước, đồng thời cũng có tư cách là một bộ thuộc Chính phủ, chịu sự chi phối, tác động chính sách trực tiếp từ (Thủ tướng) Chính phủ và gián tiếp từ các cơ quan, đoàn thể khác, vẫn như thường lệ, đang chịu áp lực lớn từ các phía xung đột để đưa ra được một chính sách tiền tệ với lãi suất khả dĩ đạt điểm cân bằng thỏa mãn cho tất cả các bên. Nhiệm vụ của họ càng trở nên nan giải hơn nữa khi việc hoạch định chính sách tiền tệ của mình còn phải “nhìn” sang cả chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới.

Ảnh hưởng từ các ngân hàng trung ương

Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương các nước lớn trên thế giới có thể tác động đến chính sách tiền tệ của NHNN qua một số kênh, bao gồm lãi suất, tỷ giá, dòng vốn lưu chuyển xuyên biên giới, ổn định tài chính, và điều phối chính sách.

Khi một ngân hàng trung ương lớn như Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tại Mỹ điều chỉnh lãi suất chính sách, nó có thể ảnh hưởng đến chi phí vay, quyết định đầu tư và kỳ vọng về lạm phát trong nền kinh tế trong nước, từ đó ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ trong nước.

Tương tự, các biện pháp của ngân hàng trung ương, chẳng hạn như thay đổi lãi suất ở Mỹ hoặc can thiệp vào thị trường ngoại hối như ở Nhật, có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái tiền đồng. Sự biến động của tỷ giá hối đoái có tác động đến chính sách tiền tệ trong nước bởi vì nó ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của xuất khẩu, giá nhập khẩu và lạm phát, là những yếu tố phải tính đến trong hoạch định chính sách tiền tệ của NHNN.

Ngoài ra, chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn cũng có thể ảnh hưởng đến dòng vốn giữa các quốc gia. Khi Fed thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, như giảm/ngừng nới lỏng định lượng hoặc mua tài sản tư nhân (trái phiếu doanh nghiệp), nó có thể làm tăng lãi suất và giảm cung tiền trong nền kinh tế. Điều này khiến cho các nhà đầu tư chuyển sang tìm kiếm lợi suất cao ở Mỹ và có thể đảo ngược dòng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam. Khi đó, NHNN có thể sẽ phải xem xét điều chỉnh chính sách của mình để quản lý tác động đảo chiều của dòng vốn ngoại lên nền kinh tế trong nước.

Một kênh tác động khác nữa là thông qua sự ổn định tài chính trong nước. Các động thái chính sách thực hiện bởi các ngân hàng trung ương lớn có thể ảnh hưởng đến điều kiện tài chính và tâm lý thị trường toàn cầu. Ví dụ, sự thay đổi chính sách tiền tệ, việc cung cấp thanh khoản hoặc sự thực thi các quy định pháp lý bởi một ngân hàng trung ương lớn có thể ảnh hưởng đến thị trường tài chính toàn cầu, bao gồm mức cung tín dụng, giá tài sản, và niềm tin thị trường nói chung. Những diễn biến này có thể ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ trong nước. Vì vậy, NHNN cần đánh giá tác động của chúng lên hệ thống tài chính trong nước và điều chỉnh chính sách một cách phù hợp để duy trì ổn định các thị trường tài chính trong nước.

Thực tại và xu hướng chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn

Ngân hàng trung ương của phần lớn các nước phát triển đã tăng thêm lãi suất chính sách của mình để giảm áp lực lạm phát và giảm thiểu nguy cơ lạm phát vượt mức mục tiêu, dẫn đến kỳ vọng giá cả và tiền lương sẽ được điều chỉnh cao hơn tương ứng. Mức lãi suất chính sách được thị trường kỳ vọng đã giảm đáng kể vào tháng Ba khi xảy ra các vụ đóng cửa một số ngân hàng ở Mỹ và Thụy Sĩ. Tuy nhiên, những lo ngại về căng thẳng ngân hàng phổ biến đã giảm đi một phần sau phản ứng của các cơ quan quản lý tài chính ở các quốc gia này. Do đó, lãi suất chính sách được thị trường kỳ vọng đã tăng lên trở lại ở nhiều nền kinh tế phát triển, mặc dù vẫn thấp hơn so với mức đã đạt được trong năm nay.

Sự định giá trên các thị trường cho thấy lãi suất chính sách đã đạt hoặc ở gần ngưỡng cao nhất ở hầu hết các nền kinh tế phát triển, và dự kiến lãi suất sẽ giảm trong một số nền kinh tế trong nửa cuối năm nay. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng trung ương đã có những động thái cho thấy lãi suất chính sách có thể cần được duy trì ở mức cao trong một thời gian nữa để đảm bảo lạm phát trở lại mức mục tiêu.

Một số động thái chính gần đây nhất của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới được liệt kê như dưới đây.

·       - Fed đã tăng mục tiêu cho lãi suất chính sách của mình lên 5-5,25% sau hai cuộc họp vào tháng Ba và tháng Năm. Theo Fed, họ sẽ đánh giá các dữ liệu mới và xem xét tác động trễ của việc siết chặt cho đến nay để xác định mức độ siết chặt phù hợp.

·       - Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã tăng mức lãi suất chính sách thêm 50 điểm cơ bản lên 3% sau tại cuộc họp vào tháng Ba, theo dự báo được đưa ra trong tháng Hai. ECB cho biết tương lai của lãi suất chính sách sẽ phụ thuộc vào dữ liệu thực tế thu thập trong bối cảnh bất trắc đang gia tăng.

·       - Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) đã tăng mức lãi suất chính sách thêm 25 điểm cơ bản lên 4,25% tại cuộc họp vào tháng Ba. BoE cho biết sẽ siết chặt chính sách tiền tệ thêm nếu có bằng chứng về áp lực lạm phát dai dẳng hơn.

·       - Ngân hàng Trung ương Canada (BoC) đã giữ mức lãi suất chính sách ổn định ở 4,5% trong cả hai cuộc họp vào tháng Ba và tháng Tư. BoC cho biết sẵn sàng tăng mức lãi suất chính sách nếu cần thiết.

·       - Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) đã giữ nguyên mức lãi suất chính sách ở mức -0,1% trong cả hai cuộc họp vào tháng Ba và tháng Tư và cho biết sẽ tiếp tục nới lỏng tiền tệ (qua mua tài sản) cho đến khi lạm phát duy trì ổn định trên mức mục tiêu 2%.

·       - Một số ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế phát triển khác như ở Thụy Điển, Thụy Sĩ, Nga, Hàn Quốc, và New Zealand  cũng đều đã tăng mức lãi suất chính sách của mình lên mức 1,5-5,25% trong các cuộc họp diễn ra từ tháng Hai đến tháng Tư.

·      -  Hầu hết các ngân hàng trung ương đã tiếp tục giảm số lượng tài sản được mua theo chương trình nới lỏng định lượng. BoC cho phép các trái phiếu đáo hạn mà không tái đầu tư, trong khi Fed tiếp tục tái đầu tư một phần thu nhập từ trái phiếu đáo hạn. Vào tháng Ba, ECB đã bắt đầu giảm số lượng trái phiếu bằng cách tái đầu tư một phần nhỏ. BoE tiếp tục bán các khoản trái phiếu của mình. Ngân hàng Trung ương Thụy Điển gần đây đã bắt đầu bán các khoản trái phiếu chính phủ có thời hạn dài, bên cạnh việc cho phép các tài sản khác đáo hạn mà không tái đầu tư. BoJ hiện là ngân hàng trung ương lớn duy nhất vẫn đang tăng lượng trái phiếu mua sắm của mình.

Như vậy có thể thấy, ngoại trừ BoJ, các ngân hàng trung ương lớn khác hầu như chỉ chú trọng đến kiềm chế lạm phát và sẵn sàng tăng lãi suất chính sách hơn nữa nếu lạm phát vẫn vượt xa mục tiêu, vẫn đứng ở mức cao dai dẳng dù có dịu đi so với mức đỉnh mấy tháng trước đây.

NHNN có thể làm được gì?

Kể cả trong kịch bản thuận lợi, theo đó lạm phát thế giới giảm đi và các ngân hàng trung ương lớn không phải tăng lãi suất thêm nữa thì việc để lạm phát trở lại mức mục tiêu 2% ở các nước này sẽ là một chặng đường không hề ngắn. Do đó, lãi suất thế giới nhìn chung sẽ vẫn đứng ở mức cao trong nửa năm cuối 2023 và sang đến ít nhất nửa năm đầu 2024.     

Ở trong nước, NHNN đã “nhanh chân” hơn các đối tác nước ngoài của mình, lội ngược dòng trào lưu tăng lãi suất chung trên thế giới bằng hai đợt hạ lãi suất cấp tập trong mấy tháng qua. Hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân là lý do chủ yếu cho các hành động chính sách này trong bối cảnh tỷ giá tiền đồng với đô la Mỹ đã gia tăng trong mấy tháng gần đây.

Tuy nhiên, tỷ giá tiền đồng tăng cũng là theo xu hướng tăng chung của các đồng tiền châu Á và phần lớn các đồng tiền mạnh khác trên thế giới khi đô la Mỹ suy yếu bởi lạm phát và tăng trưởng đều hạ nhiệt tại Mỹ, chứ không hẳn là bởi từ các điều kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam.

Trong bối cảnh bất định về triển vọng lạm phát và lập trường cứng rắn về kiềm chế lạm phát (thông qua nâng/duy trì lãi suất chính sách cao) như là một ưu tiên chính sách hàng đầu của các ngân hàng trung ương không chỉ ở Mỹ mà còn ở các nước phát triển, việc ổn định tỷ giá tiền đồng bằng các yếu tố nội lực của nền kinh tế Việt Nam như dự trữ ngoại hối, thặng dư thương mại, nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp..., vốn đã ít nhiều bị thương tổn trong giai đoạn trong và hậu Covid, sẽ là một thách thức lớn.

Do đó, xét đến các yếu tố khá bất lợi trong hoàn cảnh hiện tại, như áp lực lạm phát đứng ở mức cao trong khi chính sách tiền tệ đã được nới lỏng sớm và đáng kể (với lãi suất chính sách giảm trở lại bằng với mức trước Covid), và triển vọng lạm phát, lãi suất cao ở phần còn lại của thế giới, NHNN cần kiên định ít nhất là không hạ thêm lãi suất chính sách trong nửa cuối năm nay như yêu cầu của nhiều bên, thậm chí phải linh hoạt tăng lãi suất trở lại nếu cần thiết như cách/lập trường của nhiều ngân hàng trung ương lớn trên thế giới.  

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).