Friday 4 March 2022

Quản lý để ngăn chặn "lùa gà" đầu tư vào tài sản ảo như thế nào? (Bài đăng trên KTSG, số 8-2022 ngày 24/2/2022)

https://thesaigontimes.vn/ktsg-so-8-2022-the-gioi-so-va-nghe-nghiep-so/

Chuyện “lùa gà” qua việc mời chào nhà đầu tư cá nhân mua tài sản ảo hoặc góp vốn vào quỹ đầu tư kinh doanh tài sản ảo để rồi đến một hôm nào đó những người mời chào thì biến mất, còn quỹ đầu tư thì tuyên bố thua lỗ hết tiền, xem ra vẫn sẽ còn tiếp diễn dài kỳ. Làm thế nào để các cơ quan chức năng ngăn chặn được chuyện này? Kinh nghiệm từ Singapore sẽ là một số gợi ý cho nhà làm chính sách của Việt Nam.

Điều cần biết trước tiên là Singapore không thừa nhận tiền mã hóa, dạng tài sản ảo phổ biến nhất, là tiền pháp định, tức là không được phép sử dụng tiền mã hóa để thanh toán tại Singapore. Nhưng họ cũng không chế tài tiền mã hóa. Khi ai đó sử dụng tiền mã hóa để thanh toán thì việc này được coi là giao dịch hàng đổi hàng. Hàm ý rút ra ở đây là quản lý tiền mã hóa không phải là cấm đoán cực đoan như kiểu cấm hoàn toàn việc sở hữu, sử dụng, mua bán, thanh toán, và đầu tư vào/bằng tiền mã hóa. Thay vào đó, Singapore chế tài chặt chẽ các chủ thể cung cấp tiền mã hóa và dịch vụ.

Tiền mã hóa được MAS, cơ quan quản lý tiền tệ của Singapore, phân thành 3 loại: security token, utility token, và digital payment token (DGP). Security token là sự thể hiện dưới dạng số các loại chứng khoán truyền thống như trái phiếu, cổ phiếu, các hợp đồng phái sinh, các hợp đồng ngoại hối giao ngay... Loại tài sản ảo này có chung đặc tính là hứa trả lợi tức cho nhà đầu tư nên chịu chung các chế tài đối với chứng khoán như các chứng khoán truyền thống khác. Do đó, nếu có sàn giao dịch tiền ảo nào đó cho phép mua bán kinh doanh security token thì nó sẽ bị chế tài bởi Luật Chứng khoán và (hợp đồng) Tương lai (SFA).

Với quy định trên, MAS ngăn chặn và cấm mọi hình thức huy động vốn thông qua ICO (phát hành ra công chúng lần đầu tiên tiền mã hóa được tạo ra bởi người phát hành) mà không đăng ký theo quy định của SFA. Ngoài ra MAS cũng cấm các sàn giao dịch chưa có giấy phép từ MAS được giao dịch security token, kèm theo đó là những hình phạt nặng nề nếu không tuân thủ.

Loại tiền mã hóa thứ hai, utility token, theo định nghĩa của MAS, là sự thể hiện dưới dạng số của quyền đối với một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó (chẳng hạn phiếu mua hàng dạng số). Đây thường là loại tiền được phát hành qua ICO và được sử dụng trong nội bộ nền tảng phát hành ra nó. Dù tiền này không bị MAS chế tài nhưng chủ thể nào giao dịch loại tiền ảo này sẽ phải được phép của MAS nếu như loại tiền ảo đó có thuộc tính của các sản phẩm trên thị trường vốn (như chứng khoán, cổ phiếu, sản phẩm phái sinh...) và, do đó, bị chế tài theo SFA.   

Trên thực tế, các quy định trên đã được MAS vận dụng để ngăn chặn các vụ ICO vi phạm SFA, buộc chủ đầu tư phải trả lại tiền đã huy động, và cảnh cáo một số sàn giao dịch tiền mã hóa được xác định như chứng khoán mà không tham vấn trước với nhà chức trách (1). Nếu áp dụng tương tự thì Việt Nam sẽ ngăn chặn và giảm thiểu được từ sớm số vụ lừa đảo của các “sàn”, các quỹ tự phát mọc lên, chào mời nhà đầu tư cá nhân vào các loại tài sản ảo, tiền ảo để rồi khi đã “lùa” được một số tiền kha khá thì đóng cửa, biến mất như đã và vẫn đang tiếp tục xảy ra.

Loại tiền mã hóa thứ ba, DPT, chính là các coin (đồng tiền) thường được biết đến trong thế giới tiền mã hóa, ví dụ như Bitcoin hay Etherium. Nó được Singapore định nghĩa là sự thể hiện dưới dạng số, được mã hóa, của giá trị được sử dụng hoặc có ý định sử dụng như một phương tiện trao đổi.

Gần đây MAS ban hành Luật Dịch vụ thanh toán (PSA) có liên quan đến tiền mã hóa. Theo đó, hầu hết các công ty hoặc sàn giao dịch cung cấp dịch vụ liên quan đến DPT và phát hành DPT cần phải được cấp phép để hoạt động ở Singapore. Đồng thời, MAS cũng ban hành quy định về phòng chống rửa tiền và ngăn ngừa tài trợ khủng bố trong ngành dịch vụ DPT. Dịch vụ DPT nói ở đây bao gồm: mọi dịch vụ giao dịch DPT, dịch vụ chuyển giao DPT, dịch vụ ví lưu giữ DPT, và dịch vụ hỗ trợ trao đổi DPT mà người cung cấp dịch vụ DPT không cần phải có tiền pháp định hay DPT. 

Như vậy, ngoài một số loại trừ tạm thời, hầu  mọi nhà cung cấp tiền mã hóa và dịch vụ hầu như đều phải được cấp phép hoạt động bởi MAS và còn chịu thêm chế tài theo SFA nếu họ giao dịch các sản phẩm như security token. Cũng nên biết rằng việc xin được giấy phép của MAS hoàn toàn không dễ dàng, với một tỷ trọng đáng kể nhà cung cấp dịch vụ DPT phải rút lại đơn sau khi đã “tham vấn” MAS (tính đến giữa năm 2021 có 170 đơn thì có 30 đơn được rút lại), và một số khác thì bị từ chối. Lý do chủ yếu bởi nhiều nhà cung cấp không đáp ứng được yêu cầu về phòng chống rửa tiền và ngăn ngừa tài trợ khủng bố. Cho đến tháng 8/2021, chỉ có 2 nhà cung cấp dịch vụ DPT được MAS cấp phép hoạt động trên nguyên tắc.

Cần chú ý là Singapore hầu như không có quy định pháp luật nào về bảo vệ người tiêu dùng. MAS không có trách nhiệm bảo vệ tài sản ảo của nhà đầu tư hay phải đảm bảo rằng các giao dịch tiền ảo sẽ phải diễn ra đúng cách. Thay vào đó, MAS yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ DPT nói rõ với khách hàng rằng nhà cung cấp dịch vụ này là người được MAS cấp phép cung cấp dịch vụ DPT, tuy nhiên điều này không có nghĩa rằng tiền hay DPT mà khách hàng trả cho nhà cung cấp dịch vụ có thể sẽ lấy lại được hoàn toàn khi nhà cung cấp dịch vụ DPT phá sản, đóng cửa; rằng khách hàng không nên giao dịch bằng DPT nếu họ không hiểu biết rõ về DPT và/hoặc công nghệ mà nhà cung cấp dịch vụ DPT sử dụng; và rằng khách hàng nên nhận thức rõ rằng giá trị DPT dao động rất mạnh, và khách hàng chỉ nên mua DPT khi sẵn sàng chấp nhận rủi ro mất toàn bộ số tiền đã đầu tư vào DPT.  

Tóm lại, trong khi Singapore khá cởi mở với tiền mã hóa và tài sản ảo, họ lại rất khắt khe trong việc cấp phép và quản lý rất chặt các nhà phát hành và cung cấp dịch vụ tiền mã hóa để đảm bảo rằng mọi hoạt động phải tuân thủ pháp luật, qua đó giảm thiểu khả năng phát sinh gian lận, lừa đảo, lạm dụng từ phía nhà cung cấp. Về phía người tiêu dùng, nhà chức trách chỉ khuyến cáo mà không có bất cứ biện pháp ngăn cản hay cam kết trách nhiệm nào.

-----

(1) https://www.businesstimes.com.sg/banking-finance/mas-turns-up-heat-on-crypto-currency-exchanges-and-icos

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).