Saturday 15 July 2023

Bài học về quản trị rủi ro từ các vụ khủng hoảng ngân hàng trên thế giới gần đây (Bài đăng trên KTSG, 15/7/2023)

https://thesaigontimes.vn/bai-hoc-ve-quan-tri-rui-ro-tu-cac-vu-khung-hoang-ngan-hang-tren-the-gioi-gan-day/

Quản trị rủi ro trong ngành ngân hàng là một nhiệm vụ quan trọng của các ngân hàng nhằm quản lý và giảm thiểu những rủi ro tiềm ẩn. Các cuộc khủng hoảng gần đây, như sự sụp đổ của ngân hàng SVB và Signiture Bank ở Mỹ, biên độ lãi sụt giảm mạnh tại các ngân hàng Trung Quốc bởi nợ xấu trong ngành bất động sản của nước này, hay sự đóng cửa của ngân hàng đầu tư lớn trên thế giới, Credit Suisse... một lần nữa đã bộc lộ rõ những yếu kém trong công tác quản trị rủi ro trong ngân hàng nói chung và đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng và vận hành được một hệ thống quản trị rủi ro hữu hiệu hơn.

Xác định rủi ro

Đây là yếu tố đầu tiên và trọng yếu trong công tác quản trị rủi ro mà thường ngân hàng nào cũng (cần) nhận thức được và nỗ lực thực hiện tốt. Tuy nhiên, thực tế không luôn như vậy, và ví dụ về sự sụp đổ của SVB cho thấy đôi khi, ngay cả các ngân hàng tưởng chừng rất mạnh khỏe nhưng vẫn hoàn toàn có thể chết trên đống tài sản có chất lượng cao của mình. Điều này cho thấy nhiều ngân hàng vẫn thiếu khả năng nhận biết rủi ro đang hiện hữu kịp thời. Họ đã đánh giá thấp rủi ro liên quan đến danh mục cho vay, đầu tư của ngân hàng hoặc không nhận ra tác động tiềm năng của sự suy thoái thị trường.

Để khắc phục điểm yếu này, các ngân hàng cần chú trọng vào công tác phân tích rủi ro tín dụng liên quan đến danh mục cho vay và đầu tư, đánh giá tác động của suy thoái thị trường, và xác định được các ngành hoặc khu vực kinh tế cụ thể nào đã được cho vay, đầu tư quá nhiều, có khả năng dẫn đến rủi ro đổ vỡ.

Đánh giá rủi ro

Một yếu kém khác trong quản trị rủi ro là việc các ngân hàng không thể đánh giá và định lượng rủi ro một cách chính xác. Điều này có thể do bất cập trong các mô hình đo lường rủi ro, các kịch bản kiểm tra căng thẳng nhưng không đủ... căng thẳng, hoặc do dựa quá nhiều vào dữ liệu lịch sử vốn có thể không phản ánh được các điều kiện thị trường cực đoan. Những điểm yếu này đã bộc lộ rõ ràng qua tình trạng kinh doanh suy giảm ở các ngân hàng liên quan đến bất động sản tại Trung Quốc, khi các ngân hàng có thể đã đánh giá thấp tác động của sự suy giảm đáng kể giá trị bất động sản và nợ xấu tăng vọt.

Để khắc phục yếu kém này, các ngân hàng cần liên tục cập nhật và cải tiến các mô hình đo lường rủi ro để định lượng và đánh giá chính xác rủi ro, từ đó tiến hành kiểm tra căng thẳng và phân tích các kịch bản một cách nghiêm ngặt để đánh giá khả năng chịu đựng của danh mục của ngân hàng trong các hoàn cảnh bất lợi. Điều này bao gồm xem xét các kịch bản với các điều kiện thị trường cực đoan, có các cú sốc về thanh khoản, thay đổi lãi suất và tỷ giá biến động, giá trị tài sản sụt giảm mạnh (không chỉ, ví dụ, giảm 10-20% mà lên đến 50% hoặc hơn), tăng vọt các khoản nợ không có khả năng thu hồi, và số lượng các khách hàng mất khả năng chi trả tăng lên. Các ngân hàng cần đảm bảo các bài kiểm tra căng thẳng của mình bao phủ thỏa đáng các rủi ro tiềm ẩn và chuẩn bị các chiến lược giảm thiểu tác động phù hợp.

Tuân thủ quy định

Về lý thuyết, ngân hàng phải tuân thủ nghiêm ngặt các hướng dẫn và quy định gồm, ví dụ, các tiêu chuẩn vốn an toàn tối thiểu, thanh khoản, và quản lý rủi ro để đối phó thành công hơn các cuộc khủng hoảng tiềm năng, và duy trì sự ổn định tài chính. Tuy nhiên, rất may (và đã trở thành không may) cho những ngân hàng “cỡ nhỏ” như SVB và Silvergate, từng vận động hành lang thành công để nằm ngoài phạm vi chế tài của luật lệ được chính quyền Mỹ thiết kế và tung ra sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008 nhằm giảm thiểu rủi ro dẫn đến các cuộc khủng hoảng tương tự, với lý do rằng chúng là những ngân hàng nhỏ, rủi ro thấp và chủ yếu cho vay “các công ty tạo ra công ăn việc làm trong nền kinh tế sáng tạo”, gồm các công ty kinh doanh tiền ảo và quỹ đầu tư mạo hiểm.

Kết quả của việc “nằm ngoài vòng pháp luật” trên là, chẳng hạn với SVB, giới lãnh đạo đã bỏ qua những nguyên tắc kinh doanh ngân hàng cơ bản mà các ngân hàng thông thường khác phải tuân thủ, thực hiện – như thậm chí không có giám đốc rủi ro hầu như suốt cả năm 2022, và không thực hiện phòng ngừa rủi ro trong các vụ đánh cược lãi suất của mình – là những yếu tố rốt cuộc dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng.   

Như vậy, các ngân hàng phải thấm nhuần nhận thức rằng (xây dựng và thực thi) quản trị rủi ro trước hết là có ích và giúp cho chính mình, chứ không phải chỉ là gánh nặng hành chính, kinh tế được áp đặt vô lối, phiền phức bởi cơ quan chức năng lên các ngân hàng để rồi từ đó tìm cách lảng tránh hoặc thực thi một cách đối phó cho có.

Cho vay, đầu tư tập trung quá mức

Một số ngân hàng đã cho vay và/hoặc đầu tư quá tập trung vào các ngành hoặc khu vực địa lý cụ thể, làm tăng sự tổn thương đối với các cuộc khủng hoảng cục bộ. Với các ngân hàng cho vay tập trung vào ngành bất động sản tại Trung Quốc, các ngân hàng này đã chịu tổn thất đáng kể khi lĩnh vực bất động sản Trung Quốc suy sụp.

Bởi vậy, các ngân hàng nên phân tán, đa dạng hóa danh mục cho vay của họ sang các ngành công nghiệp và khu vực địa lý khác nhau để giảm thiểu tác động của sự suy thoái trong các ngành cụ thể và giảm thiểu rủi ro liên quan đến từ sự cho vay quá tập trung. Tất nhiên, để đa dạng hóa danh mục cho vay một cách hữu hiệu, tối ưu, các ngân hàng phải thực hiện tốt việc xác định và đánh giá đúng mức rủi ro, như nói ở trên, nhằm xác định mức phân bổ tối ưu cho các ngành lĩnh vực, ngành, khu vực địa lý khác nhau để sao cho vừa đảm bảo không tước đi cơ hội tối đa hóa lợi nhuận từ những khoản cho vay có lợi suất cao nhưng cũng không làm tăng quá mức rủi ro tổng thể cho danh mục đầu tư, cho vay của mình.

Quản trị doanh nghiệp và văn hóa tỉnh táo với rủi ro

Các ngân hàng đôi khi thiếu đi một khuôn khổ và tập quán quản trị rủi ro hữu hiệu và mạnh mẽ, thể hiện qua các khiếm khuyết trong giám sát rủi ro cũng như trong các ủy ban/nhân sự cho bộ phận quản lý rủi ro, và sự thiếu vắng một nền văn hóa tỉnh táo với rủi ro. Ví dụ, việc đóng cửa của SVB nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thành lập các ủy ban và nhân sự quản lý rủi ro riêng biệt, độc lập, và đảm bảo rằng Hội đồng quản trị ngân hàng có đủ chuyên môn về xác định và giám sát rủi ro.

Lập kế hoạch dự phòng và quản lý khủng hoảng

Có ngân hàng không có hoặc không xây dựng được các kế hoạch dự phòng toàn diện và khuôn khổ quản lý khủng hoảng, bao gồm các quy trình định sẵn để quản lý nhu cầu thanh khoản, giao tiếp với các bên liên quan và phối hợp với cơ quan quản lý... Việc thiếu các kế hoạch định sẵn thường sẽ dẫn đến việc chậm triển khai các biện pháp thích hợp và làm tăng tác động của cuộc khủng hoảng, như đã được chứng kiến qua tình trạng rất lúng túng, thụ động, hầu như phó thác số phận của mình – các ngân hàng bị đóng cửa vừa qua cho bên thứ ba, gồm định chế tài chính khác hoặc cơ quan chức năng.

Giám sát và báo cáo rủi ro

Vẫn có các ngân hàng có các bất cập về năng lực giám sát rủi ro và cơ chế báo cáo. Điều này có thể dẫn đến việc chậm trễ hoặc không chính xác trong việc nhận biết và báo cáo rủi ro, làm trì hoãn quyết định kịp thời và quản trị rủi ro chủ động, mà điển hình như SVB đã không kịp thời nhận diện được rủi ro thanh khoản gia tăng để rồi có những hành động xử lý tình huống rất bất cập, châm ngòi cho sự sụp đổ. Do đó, cần có các công cụ phân tích rủi ro tiên tiến và cơ chế báo cáo theo thời gian thực để góp phần khắc phục những bất cập này.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).