http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=238912
07:45 | 25/02/2012
Căng thẳng thanh khoản đang được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) coi là trở lực còn lại để hạ lãi suất. Để giải quyết khó khăn thanh khoản, NHNN tập trung vào biện pháp tái cơ cấu hệ thống ngân hàng (sáp nhập và hợp nhất những ngân hàng nhỏ, yếu kém) và biện pháp phân loại ngân hàng theo nhóm (4 nhóm) và giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng tương ứng cho từng nhóm (cụ thể là 17%/năm cho nhóm 1, 15%/năm cho nhóm 2, 8%/năm cho nhóm 3 và 0% cho nhóm 4 – nhóm yếu kém nhất).
Hai biện pháp trên của NHNN đã được đa phần dư luận đồng tình, ủng hộ, vì nghĩ rằng chúng có thể giải quyết tận gốc rễ của vấn đề căng thẳng thanh khoản – do các ngân hàng nhỏ và yếu kém cạnh tranh huy động tiền gửi bằng cách tăng lãi suất huy động, kéo theo cả hệ thống ngân hàng vào cuộc canh tranh tăng lãi suất huy động, từ đó dẫn đến lãi suất cho vay cũng phải cao, quá sức chịu đựng của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn một chút ta sẽ thấy các giải pháp trên không nhất thiết là câu trả lời cho vấn đề căng thẳng thanh khoản, ít nhất là trong ngắn hạn.
Về biện pháp thứ nhất, vì bản chất của nó chỉ là sáp nhập một cách cơ học các ngân hàng yếu kém với nhau (hiện đã có 3 ngân hàng dạng này được sáp nhập), nên kết quả của nó chỉ có thể là sự giảm đi về số lượng ngân hàng nói chung và cũng như số lượng ngân hàng yếu kém nói riêng. Điều đáng lưu ý là sự giảm đi về số lượng ngân hàng (yếu kém) này không nhất thiết làm cải thiện thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.
Thanh khoản trong hệ thống tùy thuộc vào cung và cầu tín dụng. Cung tín dụng phụ thuộc một phần vào nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, và phần lớn hơn vào nguồn cung cuối cùng là cung tiền của NHNN theo các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nó. Còn cầu tín dụng phụ thuộc vào tình hình sức khỏe của nền kinh tế và trực tiếp là nhu cầu vay vốn của dân cư, doanh nghiệp, và Chính phủ, là những yếu tố cũng đồng thời lại phụ thuộc vào, hoặc bị chi phối phần lớn bởi cung tiền của NHNN.
Ví dụ, khi nền kinh tế tăng trưởng trì trệ, NHNN có thể kích cầu tín dụng bằng cách tăng cung tiền nhờ đó kích thích tiêu dùng và đầu tư. Thanh khoản sẽ tràn ngập nền kinh tế đi đôi với lãi suất cho vay thương mại giảm đi. Quá trình này tiếp diễn cho đến khi cầu tín dụng tăng lên, dẫn đến lãi suất cho vay thương mại tăng trở lại. Ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng quá nóng với cầu tín dụng cho tiêu dùng và đầu tư tăng quá mạnh, NHNN phải thắt chặt chính sách tiền tệ. Tiền bơm ra sẽ ít đi trong khi nhu cầu tín dụng vẫn tăng và ở mức cao sẽ dẫn đến cạn kiệt thanh khoản, làm tăng lãi suất cho vay thương mại, cho đến thời điểm mà ở đó sẽ diễn ra quá trình nới lỏng cung tiền của NHNN như trên.
Trong bối cảnh NHNN không có điều chỉnh lớn gì đối với cung tiền của mình thì thanh khoản sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vốn nhàn rỗi hiện có trong nền kinh tế và nhu cầu vay tín dụng của cả nền kinh tế. Lãi suất cho vay thương mại trong trường hợp này sẽ do thị trường quyết định chứ không phải là NHNN nữa. Giả sử nếu NHNN muốn can thiệp trong bối cảnh không muốn dùng chính sách tiền tệ của mình thì NHNN buộc phải dùng đến các công cụ hành chính như trần lãi suất, hạn mức tăng trưởng tín dụng v.v... Vì là công cụ hành chính nên tình hình thanh khoản và lãi suất sẽ bị bóp méo. Ví dụ, khi cầu tín dụng cao sẽ dẫn đến lãi suất tăng cao. Nếu NHNN lúc đó áp trần lãi suất tiền gửi, người gửi tiền sẽ không mặn mà gửi tiền, dẫn đến thanh khoản căng thẳng.
Quay trở lại với biện pháp sáp nhập các ngân hàng yếu kém trên của NHNN. Tuy số lượng ngân hàng (yếu kém) đã giảm đi, nhưng cung và cầu tín dụng của cả nền kinh tế thì không nhất thiết tăng/giảm theo tương ứng. Ngân hàng chỉ là trung gian chuyển tải vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, nơi ít cần/không cần đến nơi cần/cần nhiều hơn.
Để dễ hình dung, giả sử hệ thống ngân hàng hiện tại có 100 ngân hàng, với tổng lượng khách hàng hiện tại của toàn hệ thống ngân hàng là X người, có tổng nhu cầu tín dụng là Y đồng, và cung tín dụng từ người gửi tiền và từ NHNN là Z đồng tại lãi suất huy động hiện tại 14%/năm. Với giả thiết hệ thống ngân hàng đang gặp khó khăn về thanh khoản, và giả thiết thêm NHNN không (có ý định) tăng cung tiền tại thời điểm này, có thể suy ra Z < Y (cầu tín dụng không được thỏa mãn đầy đủ bởi tiền gửi huy động và cung tiền từ NHNN). Sau khi sáp nhập các ngân hàng yếu kém với nhau, tổng số ngân hàng còn lại là 80, nhưng tổng số khách hàng và tổng nhu cầu tín dụng vẫn là X và Y, vì khách hàng sẽ được chuyển giao từ ngân hàng bị sáp nhập sang ngân hàng mới/khác. Như vậy, tình hình căng thẳng thanh khoản sẽ chẳng có gì thay đổi sau khi sáp nhập ngân hàng yếu kém, khi mà cầu tín dụng vẫn lớn hơn cung tín dụng từ tiền gửi dân cư và từ NHNN.
Đối với biện pháp phân loại nhóm ngân hàng và giới hạn tăng trưởng tín dụng theo nhóm, kết quả sẽ tương tự. Số ngân hàng được phép tăng trưởng tín dụng sẽ ít hơn (ngân hàng thuộc nhóm 4 không được tăng trưởng tín dụng). Nhưng điều này không đồng nghĩa với cầu tín dụng của chúng ít đi. Bản thân các ngân hàng này vẫn phải tiếp tục huy động tiền gửi để đảm bảo nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu thanh toán các khoản tiền gửi đến hạn rút ra và các nghĩa vụ thanh toán khác, trong khi một phần đáng kể vốn đã huy động được trước đây bị chôn vào các khoản nợ xấu ít/không có khả năng thu hồi (vì thế mới bị phân loại vào nhóm 4).
Ngoài ra, các ngân hàng thuộc nhóm này thường là những ngân hàng nhỏ, chiếm thị phần không đáng kể nên sự cắt giảm nhu cầu huy động tiền gửi từ chúng (nếu có) sẽ không có mấy ảnh hưởng lên nhu cầu vốn huy động của toàn hệ thống.
Quan trọng hơn, trong bối cảnh các ngân hàng nhỏ và yếu kém này không được phép tăng trưởng tín dụng, và giả sử vì thế sẽ không đáp ứng được nhu cầu về vay vốn của một bộ phận khách hàng hiện hữu của chúng, các khách hàng này sẽ không có lý do gì mà không chuyển sang vay ở các ngân hàng khác, dẫn đến tổng cầu tín dụng toàn hệ thống không thay đổi. Nếu khi đó tổng cung tín dụng từ tiền gửi dân cư và NHNN vẫn ở mức như cũ thì thanh khoản vẫn căng thẳng như cũ, không có gì cải thiện hơn.
Sự tồn tại và duy trì của trần lãi suất huy động trong trường hợp này sẽ càng làm tăng thêm tình trạng căng thẳng thanh khoản vì nguồn tiền gửi huy động sẽ tiếp tục bị hạn chế, không được khuyến khích (đặt ra trần lãi suất huy động, về bản chất chính là áp đặt một lãi suất mang tính cưỡng ép thiệt thòi cho người gửi tiền. Nếu không phải vậy thì chẳng cần phải đặt ra trần lãi suất làm gì).
Như vậy có thể thấy 2 biện pháp trên đang thực thi của NHNN không nhất thiết có tác dụng tích cực gì đến tình hình căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng hiện nay, ít nhất trong ngắn hạn. Tất nhiên, biện pháp thứ 2 có thể mang đến một số kết quả tích cực như làm tăng thêm tính lành mạnh, an toàn của hệ thống vì từng ngân hàng phải nỗ lực để được phân vào nhóm tốt hơn. Nhưng từ kết quả đó cho đến lúc cải thiện được thanh khoản là một chặng đường dài, khó mà nhìn thấy được trong thời gian một, hai quý tới.
Nói cách khác, để giải quyết căn bản tình trạng căng thẳng thanh khoản nhằm gấp rút hạ lãi suất ngay trong quý này hoặc quý sau, NHNN hoặc là buộc phải bỏ trần lãi suất huy động, hoặc là phải tăng cung tiền, hoặc là phối hợp cả 2 giải pháp này. Nhưng vì giải pháp bỏ trần lãi suất huy động sẽ có thể làm tăng lãi suất cho vay tức thời nên chắc sẽ vấp phải sự phản đối mạnh mẽ hơn nữa từ dư luận.
Vậy chỉ còn giải pháp tăng cung tiền, với cái giá phải trả là áp lực lạm phát sẽ tăng. Hiện nay, dường như xu hướng nới lỏng cung tiền đang dần rõ nét. Nếu tiếp tục như vậy trong một vài tháng tới thì lãi suất sẽ hạ xuống đi kèm với lạm phát sẽ khó dừng ở mức dưới 1 con số như kỳ vọng của Chính phủ (ví dụ, hãng xếp hạng tín dụng Moody’s dự đoán lạm phát của Việt Nam năm nay là 12,5%). Tóm lại, câu hỏi đặt ra cho cả xã hội và NHNN vẫn là muốn đánh đổi cái nào lấy cái nào?
Friday, 24 February 2012
Friday, 17 February 2012
Gót chân Ashilles của các ngân hàng Việt trong mắt chuyên gia quốc tế (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=238231
08:11 | 18/02/2012
Mới đây, tác giả bài này đã có dịp gặp và thảo luận với các chuyên gia phân tích của một hãng xếp hạng tín dụng quốc tế hàng đầu về vấn đề căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng như những đánh giá chung về hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cuộc gặp đã đem lại một số thu hoạch đáng chú ý mà nếu biết dựa vào đó để có hướng khắc phục hiệu quả thì xếp hạng rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam và của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ được cải thiện đáng kể.
Hãng xếp hạng tín dụng này hiện nay đang xếp hạng triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam ở mức tiêu cực trong vòng ít nhất 12 tháng tới. Có 4 lý do chính các chuyên gia xếp hạng đưa ra làm cơ sở cho hành động của mình như sau:
Thứ nhất, tính không minh bạch. Đây được coi là một trong những điểm yếu lớn nhất trong hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế. Hãng xếp hạng bình luận rằng họ không thể lấy được mấy thông tin hữu ích từ trang web tiếng Anh của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Lẽ ra, với chức năng của một ngân hàng Trung ương và đội ngũ cán bộ đông đảo, NHNN hoàn toàn có thể và cần phải cập nhật nhiều thông tin bằng tiếng Anh, chứ không chỉ đa phần bằng tiếng Việt như hiện nay. Trang web của các ngân hàng thương mại cũng không khá hơn. Một số ngân hàng thương mại nếu có đưa các thông tin tài chính (bắt buộc với các ngân hàng niêm yết) thì các thông tin này đều lạc hậu, có từ cách đây cả năm.
Thứ hai, tính bất cập của các tiêu chuẩn kế toán Việt Nam. Mặc dù các tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế đã được khuyến khích áp dụng ở Việt Nam nhưng điều đáng nói là việc áp dụng này không phải là bắt buộc. Và do tính dễ dãi theo các tiêu chuẩn Việt Nam so với các tiêu chuẩn quốc tế nên các ngân hàng vẫn thích và thường áp dụng các tiêu chuẩn Việt Nam hơn. Ví dụ cho chuyện này là phân loại nợ xấu, nếu theo tiêu chuẩn Việt Nam thì thấp hơn hàng chục điểm phần trăm so với tiêu chuẩn quốc tế. Cũng chính vì việc thích áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam này nên các hãng xếp hạng quốc tế không thể so sánh các ngân hàng hoặc cả hệ thống các ngân hàng Việt Nam với các nước khác, dẫn đến cái nhìn bi quan, hồ nghi.
Thứ ba, tỷ lệ vốn an toàn thấp. Mặc dù nhiều ngân hàng báo cáo đạt mức tỷ lệ vốn an toàn đạt mức 9%- 10% nhưng đây lại là theo tiêu chuẩn Basel I, thấp hơn tiêu chuẩn Basel II, trong khi thế giới đang tiến tới tiêu chuẩn Basel III và còn cao hơn nữa. Điều này càng đáng lo ngại trong bối cảnh các ngân hàng thương mại đua nhau đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng trong suốt mấy năm qua, có lúc đạt đến 70%- 80%/năm, dẫn đến cạnh tranh thu hút tiền gửi khốc liệt như hiện nay. Hãng xếp hạng tín dụng đặt ra câu hỏi không dễ trả lời là các ngân hàng này sẽ làm cách nào để xử lý vấn đề vốn an toàn thấp này? Nói cách khác, công tác quản lý rủi ro là điều gì đó hầu như không tồn tại ở trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thứ tư, cho vay khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) quá nhiều. Điều quan trọng hơn là nhiều khoản nợ xấu vẫn được phân loại ở nhóm 1 (nợ không có vấn đề) và nhóm 2 (nợ cần chú ý). Ngay cả với những khoản nợ của Vinashin vẫn không được phân loại thành nợ xấu, với quan niệm rằng Chính phủ đang tái cơ cấu Vinashin và đến một ngày nào đó, doanh nghiệp này sẽ hồi sinh, làm ra đủ để trả nợ vay, và tức là khoản nợ hiện nay không phải/không được coi là nợ xấu (không thu hồi được).
Như vậy, qua mấy nhận định trên của hãng xếp hạng tín dụng, có thể thấy rõ là việc không coi trọng tính minh bạch cũng như sự cần thiết trong việc cung cấp thông tin, áp dụng các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế, thiết lập và thực thi nghiêm túc công tác quản lý rủi ro một cách chuyên nghiệp, phân loại nghiêm túc nợ xấu theo tiêu chuẩn quốc tế… là những điểm yếu chính trong hệ thống ngân hàng và của từng ngân hàng ở Việt Nam trong con mắt quốc tế và là lý do để họ có cái nhìn về hệå thống ngân hàng Việt Nam đôi khi tiêu cực quá mức cần thiết, trong bối cảnh thông tin vừa thiếu vừa tù mù và các hoạt động thì chẳng theo một chuẩn mực đáng tin cậy nào.
Để cải thiện được hạng tín dụng của mình, các ngân hàng thương mại và NHNN - với vai trò là cơ quan thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng - một mặt phải tăng cường tính minh bạch hơn nữa trong việc cung cấp thông tin, nhanh chóng và triệt để áp dụng tối đa các tiêu chuẩn quốc tế trong hoạt động ngân hàng, và trung thực, nghiêm túc hơn trong việc phân loại nợ xấu (đi kèm với việc áp dụng tiêu chuẩn quốc tế trong phân loại nợ xấu). Trung thực và nghiêm túc có thể sẽ làm bộc lộ rõ hơn nhiều yếu kém, tồn tại cho người bên ngoài thấy, nhưng là điều cần thiết làm cơ sở khôi phục lòng tin của quốc tế và để được thăng hạng trong mắt họ khi có những biến chuyển tích cực từ phía Việt Nam.
Đây là một số công việc có thể làm ngay bên cạnh những việc đòi hỏi phải có những nỗ lực lớn, thay đổi mang tính tư duy chiến lược như chuyện áp dụng và bảo đảm tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu theo chuẩn mực quốc tế, đồng thời với việc đạt tốc độ tăng trưởng tín dụng lành mạnh và bền vững hơn cho cả hệ thống.
08:11 | 18/02/2012
Mới đây, tác giả bài này đã có dịp gặp và thảo luận với các chuyên gia phân tích của một hãng xếp hạng tín dụng quốc tế hàng đầu về vấn đề căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng như những đánh giá chung về hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cuộc gặp đã đem lại một số thu hoạch đáng chú ý mà nếu biết dựa vào đó để có hướng khắc phục hiệu quả thì xếp hạng rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam và của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ được cải thiện đáng kể.
Hãng xếp hạng tín dụng này hiện nay đang xếp hạng triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam ở mức tiêu cực trong vòng ít nhất 12 tháng tới. Có 4 lý do chính các chuyên gia xếp hạng đưa ra làm cơ sở cho hành động của mình như sau:
Thứ nhất, tính không minh bạch. Đây được coi là một trong những điểm yếu lớn nhất trong hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế. Hãng xếp hạng bình luận rằng họ không thể lấy được mấy thông tin hữu ích từ trang web tiếng Anh của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Lẽ ra, với chức năng của một ngân hàng Trung ương và đội ngũ cán bộ đông đảo, NHNN hoàn toàn có thể và cần phải cập nhật nhiều thông tin bằng tiếng Anh, chứ không chỉ đa phần bằng tiếng Việt như hiện nay. Trang web của các ngân hàng thương mại cũng không khá hơn. Một số ngân hàng thương mại nếu có đưa các thông tin tài chính (bắt buộc với các ngân hàng niêm yết) thì các thông tin này đều lạc hậu, có từ cách đây cả năm.
Thứ hai, tính bất cập của các tiêu chuẩn kế toán Việt Nam. Mặc dù các tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế đã được khuyến khích áp dụng ở Việt Nam nhưng điều đáng nói là việc áp dụng này không phải là bắt buộc. Và do tính dễ dãi theo các tiêu chuẩn Việt Nam so với các tiêu chuẩn quốc tế nên các ngân hàng vẫn thích và thường áp dụng các tiêu chuẩn Việt Nam hơn. Ví dụ cho chuyện này là phân loại nợ xấu, nếu theo tiêu chuẩn Việt Nam thì thấp hơn hàng chục điểm phần trăm so với tiêu chuẩn quốc tế. Cũng chính vì việc thích áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam này nên các hãng xếp hạng quốc tế không thể so sánh các ngân hàng hoặc cả hệ thống các ngân hàng Việt Nam với các nước khác, dẫn đến cái nhìn bi quan, hồ nghi.
Thứ ba, tỷ lệ vốn an toàn thấp. Mặc dù nhiều ngân hàng báo cáo đạt mức tỷ lệ vốn an toàn đạt mức 9%- 10% nhưng đây lại là theo tiêu chuẩn Basel I, thấp hơn tiêu chuẩn Basel II, trong khi thế giới đang tiến tới tiêu chuẩn Basel III và còn cao hơn nữa. Điều này càng đáng lo ngại trong bối cảnh các ngân hàng thương mại đua nhau đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng trong suốt mấy năm qua, có lúc đạt đến 70%- 80%/năm, dẫn đến cạnh tranh thu hút tiền gửi khốc liệt như hiện nay. Hãng xếp hạng tín dụng đặt ra câu hỏi không dễ trả lời là các ngân hàng này sẽ làm cách nào để xử lý vấn đề vốn an toàn thấp này? Nói cách khác, công tác quản lý rủi ro là điều gì đó hầu như không tồn tại ở trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thứ tư, cho vay khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) quá nhiều. Điều quan trọng hơn là nhiều khoản nợ xấu vẫn được phân loại ở nhóm 1 (nợ không có vấn đề) và nhóm 2 (nợ cần chú ý). Ngay cả với những khoản nợ của Vinashin vẫn không được phân loại thành nợ xấu, với quan niệm rằng Chính phủ đang tái cơ cấu Vinashin và đến một ngày nào đó, doanh nghiệp này sẽ hồi sinh, làm ra đủ để trả nợ vay, và tức là khoản nợ hiện nay không phải/không được coi là nợ xấu (không thu hồi được).
Như vậy, qua mấy nhận định trên của hãng xếp hạng tín dụng, có thể thấy rõ là việc không coi trọng tính minh bạch cũng như sự cần thiết trong việc cung cấp thông tin, áp dụng các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế, thiết lập và thực thi nghiêm túc công tác quản lý rủi ro một cách chuyên nghiệp, phân loại nghiêm túc nợ xấu theo tiêu chuẩn quốc tế… là những điểm yếu chính trong hệ thống ngân hàng và của từng ngân hàng ở Việt Nam trong con mắt quốc tế và là lý do để họ có cái nhìn về hệå thống ngân hàng Việt Nam đôi khi tiêu cực quá mức cần thiết, trong bối cảnh thông tin vừa thiếu vừa tù mù và các hoạt động thì chẳng theo một chuẩn mực đáng tin cậy nào.
Để cải thiện được hạng tín dụng của mình, các ngân hàng thương mại và NHNN - với vai trò là cơ quan thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng - một mặt phải tăng cường tính minh bạch hơn nữa trong việc cung cấp thông tin, nhanh chóng và triệt để áp dụng tối đa các tiêu chuẩn quốc tế trong hoạt động ngân hàng, và trung thực, nghiêm túc hơn trong việc phân loại nợ xấu (đi kèm với việc áp dụng tiêu chuẩn quốc tế trong phân loại nợ xấu). Trung thực và nghiêm túc có thể sẽ làm bộc lộ rõ hơn nhiều yếu kém, tồn tại cho người bên ngoài thấy, nhưng là điều cần thiết làm cơ sở khôi phục lòng tin của quốc tế và để được thăng hạng trong mắt họ khi có những biến chuyển tích cực từ phía Việt Nam.
Đây là một số công việc có thể làm ngay bên cạnh những việc đòi hỏi phải có những nỗ lực lớn, thay đổi mang tính tư duy chiến lược như chuyện áp dụng và bảo đảm tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu theo chuẩn mực quốc tế, đồng thời với việc đạt tốc độ tăng trưởng tín dụng lành mạnh và bền vững hơn cho cả hệ thống.
Friday, 10 February 2012
Về việc một số ngân hàng xin xuất vàng: Không phải là lối thoát (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=237548
07:50 | 11/02/2012
Trong tình cảnh cạn kiệt thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, một số ngân hàng nắm giữ vàng với ước tính khoảng 100 tấn đã lên tiếng kêu gọi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép xuất khẩu vàng tài khoản (vốn mới chỉ có 5 ngân hàng và công ty SJC được phép thực hiện) để giải quyết nhu cầu thanh khoản cấp bách của mình. Điều gì sẽ xảy ra khi NHNN cho phép thêm những ngân hàng này thực hiện xuất vàng, dù là trên tài khoản?
Hiển nhiên, khi vàng xuất đi, các ngân hàng sẽ thu về một số lượng USD tương ứng, tính theo giá vàng quốc tế. Với mục đích giải quyết nhu cầu thanh khoản cấp bách, các ngân hàng có thể hoán đổi số USD thu được này ra VND. Hoặc họ cũng có thể sử dụng luôn (một phần) lượng USD này để thanh toán các khoản huy động USD đến hạn, hoặc tiếp tục cho vay bằng USD.
Ở lựa chọn thứ nhất, khi các ngân hàng hoán đổi USD ra VND, cầu về USD tăng lên trong khi cầu USD giảm đi tương đối (với giả thiết các yếu tố khác không thay đổi). Cầu VND tăng sẽ dẫn đến lãi suất huy động VND phải tăng cao tương ứng, khi mà NHNN không tăng cung tiền VND với quan ngại sẽ làm tăng áp lực lạm phát.
Nhưng vì lãi suất huy động VND bị áp trần lãi suất 14%/năm nên người gửi tiền càng không mặn mà với việc gửi VND vào ngân hàng chỉ để hưởng lãi suất cố định 14%/năm này, mà tiếp tục chuyển sang các kênh tín dụng/đầu tư khác (không chính thức). Điều này buộc các ngân hàng phải tiếp tục liều lĩnh phớt lờ quy định trần lãi suất của NHNN và tìm cách huy động VND với lãi suất cao hơn để cứu thanh khoản cho chính mình. Nếu các ngân hàng không làm vậy thì tức là tình trạng khan hiếm thanh khoản càng trở nên quẫn bách hơn. Hai trường hợp này đều làm tăng lãi suất cho vay, tức là đi ngược lại mong muốn hạ lãi suất cho vay của Chính phủ và NHNN.
Với lựa chọn sử dụng luôn USD, không chuyển đổi ra VND, các ngân hàng bán vàng thu USD như vậy sẽ làm tăng tình trạng đô la hóa, là hậu quả của việc có thêm một lượng USD đáng kể đi vào lưu thông, vào nền kinh tế mà không được NHNN “nội tệ hóa” (thu mua lại và bán đối ứng ra bằng VND theo tỷ giá quy định). Mà như đã biết, đô la hóa trầm trọng hơn sẽ làm giảm đi tính hữu hiệu của chính sách tiền tệ, ảnh hưởng đến tính tự chủ của NHNN trong việc điều hành chính sách lãi suất và tỷ giá. Cụ thể hơn, mọi thay đổi về cung tiền nay đều phải ở mức độ lớn hơn mới tạo ra được cùng một hiệu ứng lên lãi suất và tỷ giá so với trước đây khi nạn đô la hóa chưa trầm trọng thêm.
Đô la hóa còn làm giảm đi nguồn thu nhập cho ngân sách thông qua “thuế lạm phát”- tức là quyền in tiền của NHNN tài trợ cho chi tiêu Chính phủ.
Thậm chí, ngay cả trong trường hợp cực đoan khi NHNN bắt buộc các ngân hàng trên phải bán lại số USD thu được từ việc xuất vàng cho NHNN để lấy VND, việc này cũng gây ảnh hưởng không mong muốn cho hệ thống ngân hàng và cho cả nền kinh tế trong bối cảnh hiện tại. Cụ thể, nếu NHNN dừng lại ở việc chỉ cung ứng đúng số VND cho số USD mình mua vào từ các ngân hàng thì vô hình trung cung tiền VND tăng lên, làm tăng áp lực lạm phát.
Nếu không muốn tăng cung tiền VND với lo ngại tăng áp lực lạm phát thì NHNN, sau khi mua USD, trả bằng VND, có thể bắt buộc các ngân hàng thương mại (những ngân hàng đã xuất vàng thu USD và bán lại cho NHNN thu về VND) phải mua tín phiếu, trái phiếu bắt buộc để hút lại số VND đã tung ra. Mà như vậy thì tình hình thanh khoản của những ngân hàng xuất vàng tài khoản và của cả hệ thống ngân hàng vẫn không được cải thiện. Có khác chăng là thay vì nắm giữ vàng trên tài khoản, nay các ngân hàng này lại nắm giữ một mớ tín phiếu, trái phiếu (vàng đã đổi lấy trái phiếu, tín phiếu; còn dự trữ ngoại hối của NHNN thì tăng lên tương ứng).
Tóm lại, cả hai lựa chọn (hoặc phối hợp giữa hai lựa chọn) nếu có thì chỉ có thể mang lại tác dụng cấp cứu thanh khoản tức thời cho cá nhân từng ngân hàng có vàng, chứ không có tác dụng cứu thanh khoản cho toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế, đặc biệt xét trong thời gian dài hơn, khi hành động bán vàng thu USD của các ngân hàng đẩy lãi suất VND lên cao hơn. Đó là chưa kể đến tác dụng phụ nhưng không hề nhỏ của việc này khi làm nạn đô la hóa trầm trọng thêm, cũng như làm tăng thêm áp lực lạm phát. Nói cách khác, giải pháp cho phép xuất vàng không giải quyết được vấn đề khó khăn thanh khoản của cả hệ thống ngân hàng. Giải pháp khả thi nhất vẫn là phải tự do hóa lãi suất huy động để giải quyết thanh khoản cho cả hệ thống ngân hàng, làm cơ sở để hạ dần lãi suất khi khó khăn thanh khoản đã qua và kỳ vọng lạm phát giảm đi.
07:50 | 11/02/2012
Trong tình cảnh cạn kiệt thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, một số ngân hàng nắm giữ vàng với ước tính khoảng 100 tấn đã lên tiếng kêu gọi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép xuất khẩu vàng tài khoản (vốn mới chỉ có 5 ngân hàng và công ty SJC được phép thực hiện) để giải quyết nhu cầu thanh khoản cấp bách của mình. Điều gì sẽ xảy ra khi NHNN cho phép thêm những ngân hàng này thực hiện xuất vàng, dù là trên tài khoản?
Hiển nhiên, khi vàng xuất đi, các ngân hàng sẽ thu về một số lượng USD tương ứng, tính theo giá vàng quốc tế. Với mục đích giải quyết nhu cầu thanh khoản cấp bách, các ngân hàng có thể hoán đổi số USD thu được này ra VND. Hoặc họ cũng có thể sử dụng luôn (một phần) lượng USD này để thanh toán các khoản huy động USD đến hạn, hoặc tiếp tục cho vay bằng USD.
Ở lựa chọn thứ nhất, khi các ngân hàng hoán đổi USD ra VND, cầu về USD tăng lên trong khi cầu USD giảm đi tương đối (với giả thiết các yếu tố khác không thay đổi). Cầu VND tăng sẽ dẫn đến lãi suất huy động VND phải tăng cao tương ứng, khi mà NHNN không tăng cung tiền VND với quan ngại sẽ làm tăng áp lực lạm phát.
Nhưng vì lãi suất huy động VND bị áp trần lãi suất 14%/năm nên người gửi tiền càng không mặn mà với việc gửi VND vào ngân hàng chỉ để hưởng lãi suất cố định 14%/năm này, mà tiếp tục chuyển sang các kênh tín dụng/đầu tư khác (không chính thức). Điều này buộc các ngân hàng phải tiếp tục liều lĩnh phớt lờ quy định trần lãi suất của NHNN và tìm cách huy động VND với lãi suất cao hơn để cứu thanh khoản cho chính mình. Nếu các ngân hàng không làm vậy thì tức là tình trạng khan hiếm thanh khoản càng trở nên quẫn bách hơn. Hai trường hợp này đều làm tăng lãi suất cho vay, tức là đi ngược lại mong muốn hạ lãi suất cho vay của Chính phủ và NHNN.
Với lựa chọn sử dụng luôn USD, không chuyển đổi ra VND, các ngân hàng bán vàng thu USD như vậy sẽ làm tăng tình trạng đô la hóa, là hậu quả của việc có thêm một lượng USD đáng kể đi vào lưu thông, vào nền kinh tế mà không được NHNN “nội tệ hóa” (thu mua lại và bán đối ứng ra bằng VND theo tỷ giá quy định). Mà như đã biết, đô la hóa trầm trọng hơn sẽ làm giảm đi tính hữu hiệu của chính sách tiền tệ, ảnh hưởng đến tính tự chủ của NHNN trong việc điều hành chính sách lãi suất và tỷ giá. Cụ thể hơn, mọi thay đổi về cung tiền nay đều phải ở mức độ lớn hơn mới tạo ra được cùng một hiệu ứng lên lãi suất và tỷ giá so với trước đây khi nạn đô la hóa chưa trầm trọng thêm.
Đô la hóa còn làm giảm đi nguồn thu nhập cho ngân sách thông qua “thuế lạm phát”- tức là quyền in tiền của NHNN tài trợ cho chi tiêu Chính phủ.
Thậm chí, ngay cả trong trường hợp cực đoan khi NHNN bắt buộc các ngân hàng trên phải bán lại số USD thu được từ việc xuất vàng cho NHNN để lấy VND, việc này cũng gây ảnh hưởng không mong muốn cho hệ thống ngân hàng và cho cả nền kinh tế trong bối cảnh hiện tại. Cụ thể, nếu NHNN dừng lại ở việc chỉ cung ứng đúng số VND cho số USD mình mua vào từ các ngân hàng thì vô hình trung cung tiền VND tăng lên, làm tăng áp lực lạm phát.
Nếu không muốn tăng cung tiền VND với lo ngại tăng áp lực lạm phát thì NHNN, sau khi mua USD, trả bằng VND, có thể bắt buộc các ngân hàng thương mại (những ngân hàng đã xuất vàng thu USD và bán lại cho NHNN thu về VND) phải mua tín phiếu, trái phiếu bắt buộc để hút lại số VND đã tung ra. Mà như vậy thì tình hình thanh khoản của những ngân hàng xuất vàng tài khoản và của cả hệ thống ngân hàng vẫn không được cải thiện. Có khác chăng là thay vì nắm giữ vàng trên tài khoản, nay các ngân hàng này lại nắm giữ một mớ tín phiếu, trái phiếu (vàng đã đổi lấy trái phiếu, tín phiếu; còn dự trữ ngoại hối của NHNN thì tăng lên tương ứng).
Tóm lại, cả hai lựa chọn (hoặc phối hợp giữa hai lựa chọn) nếu có thì chỉ có thể mang lại tác dụng cấp cứu thanh khoản tức thời cho cá nhân từng ngân hàng có vàng, chứ không có tác dụng cứu thanh khoản cho toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế, đặc biệt xét trong thời gian dài hơn, khi hành động bán vàng thu USD của các ngân hàng đẩy lãi suất VND lên cao hơn. Đó là chưa kể đến tác dụng phụ nhưng không hề nhỏ của việc này khi làm nạn đô la hóa trầm trọng thêm, cũng như làm tăng thêm áp lực lạm phát. Nói cách khác, giải pháp cho phép xuất vàng không giải quyết được vấn đề khó khăn thanh khoản của cả hệ thống ngân hàng. Giải pháp khả thi nhất vẫn là phải tự do hóa lãi suất huy động để giải quyết thanh khoản cho cả hệ thống ngân hàng, làm cơ sở để hạ dần lãi suất khi khó khăn thanh khoản đã qua và kỳ vọng lạm phát giảm đi.
Thursday, 9 February 2012
Huy động vàng trong dân: Không đơn giản vậy (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)
http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=237351
08:09 | 09/02/2012
Dư luận gần đây lại có thêm một dịp được khuấy động với tuyên bố của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là sẽ có chính sách huy động vàng trong dân (với dự đoán hàng trăm tấn) cho mục đích đưa vào đầu tư phát triển kinh tế, như lời Thống đốc NHNN: “Nếu chúng ta không huy động được số vàng này trong dân để phục vụ phát triển KT – XH thì đất nước chưa thể mạnh lên được”.
Nghe những lời phát biểu này, có lẽ ý nghĩ đầu tiên ập đến với không ít người là Chính phủ đang thai nghén một chủ trương tận thu mới. Nguồn lực vàng mà người dân đang nắm giữ có thể đúng là khá đáng kể, nhưng câu hỏi đặt ra là tại sao đến thời điểm này, việc huy động vàng mới được đặt ra? Người ta có thể suy diễn rằng quả đúng việc này là tận thu khi trở nên bất lực và hết bài trong điều hành kinh tế vĩ mô nên túng thì phải tính, buộc phải nhắm tới những thứ ngoài tầm với, không phải của mình, bằng những công cụ thậm chí chưa được định hình ra làm sao, có kết quả và tác hại như thế nào… Trên hết, Chính phủ và NHNN dường như chưa nhìn ra hậu quả của việc khuyến khích huy động vàng, ngoại tệ ở Việt Nam.
Khách quan mà nói thì việc huy động vàng trong dân rồi tái phân bổ lại thông qua hệ thống ngân hàng sẽ làm cho cung và cầu về vàng gặp nhau dễ dàng hơn thông qua trung gian là các ngân hàng. Có lẽ, đây là lý do có ý nghĩa và đáng kể duy nhất để biện hộ cho chủ trương này của NHNN. Nhưng điều này lại đồng nghĩa với việc khuyến khích, hợp pháp hóa, việc dân chúng chuyển đổi tài sản VND sang vàng (tức làm trầm trọng thêm nạn vàng hóa, sẽ được nói rõ thêm dưới đây) để người sở hữu vàng và gửi vào ngân hàng vừa phòng ngừa rủi ro lạm phát, vừa vẫn được hưởng một mức lãi thỏa đáng (cao hơn so với trường hợp họ tự cho vay trên thị trường tự do).
Cũng có người vạch ra lợi ích của việc huy động này là NHNN sẽ có thêm được một nguồn ngoại tệ thông qua việc hoán đổi vàng với ngân hàng nước ngoài để tăng thêm dự trữ ngoại hối của mình. Hoặc NHNN có thể sử dụng nguồn vàng huy động này để can thiệp trên thị trường vàng nội địa.
Tuy nhiên, khoản vàng huy động này dù có nằm trong tay NHNN ở dạng vàng hay ngoại tệ thì bản chất của nó vẫn là một khoản đi vay chứ không phải là một khoản thuộc sở hữu toàn quyền của NHNN để NHNN muốn sử dụng ra sao thì sử dụng mà không phải bận tâm đến việc lo trả nợ như trong trường hợp mua đứt bán đoạn. Vì thế, cho dù khuyến khích được dân yên tâm gửi vàng vào hệ thống ngân hàng và cuối cùng là nằm trong két sắt của NHNN (dưới dạng vàng hoặc ngoại tệ) chăng nữa thì, vì không phải là của mình, vẫn sẽ phải có một thời điểm (không định trước nào đó) NHNN buộc phải xuất kho vàng/ngoại tệ ra để trả nợ. Mà như vậy thì không thể coi nguồn vàng huy động được này là quỹ dự trữ vàng/ngoại hối của NHNN theo đúng nghĩa của nó (phải thuộc sở hữu để sử dụng theo ý muốn). Do đó, ý nghĩa của việc huy động vàng để tăng dự trữ vàng/ngoại tệ, để can thiệp vào thị trường vàng/ngoại tệ sẽ không còn nữa.
Tóm lại, trừ khi được cụ thể hóa bằng những lợi ích cụ thể A, B, C… và được minh chứng bằng những lập luận thuyết phục, những lý do chung chung khác như “mục đích phát triển KT - XH” và làm cho “đất nước mạnh lên”… tuyệt đối không phải là lý do xác đáng để đưa ra bất cứ một chính sách nào, đặc biệt khi nó có tầm ảnh hưởng vĩ mô lớn. Và kể cả sau này nếu NHNN có đưa ra được những lợi ích cụ thể nào đó một cách thuyết phục thì họ vẫn cần phải chứng minh được rằng những lợi ích đó là lớn hơn những tổn thất, bất lợi mang lại từ chính sách huy động vàng của mình, như nêu dưới đây.
Huy động vàng (có trả lãi kèm với bảo hiểm giá vàng) có khả năng làm trầm trọng ngay lập tức nạn “vàng hóa” trong nền kinh tế Việt Nam (với giả thiết rằng dân chúng thấy việc gửi vàng vào ngân hàng là hấp dẫn, có lợi). Xin nhấn mạnh ở đây là sẽ làm trầm trọng thêm chứ không phải là giảm đi, nạn vàng hóa. Nhiều người có trách nhiệm vẫn lầm tưởng rằng thu hút vàng (hay ngoại tệ) vào hệ thống ngân hàng có nghĩa là sẽ làm giảm nạn vàng hóa (hay đô la hóa) vì vàng (hay đô la) ở thị trường tự do (ngoài hệ thống ngân hàng) sẽ ít đi.
Thực ra, vàng hóa và/ hoặc đô la hóa cần được hiểu là tình trạng của một nền kinh tế mà ở đó dân chúng dùng (hợp pháp hoặc bất hợp pháp) vàng và/ hoặc đôla song song với bản tệ (VND). Tình trạng vàng hóa và/hoặc đôla hóa càng trầm trọng nếu sự hiện diện của vàng và/ hoặc đô la trong nền kinh tế (lưu ý là cả trong lưu thông - ngoài hệ thống ngân hàng – và trong hệ thống ngân hàng) càng lớn, và mức độ thay thế VND bằng vàng/ngoại tệ như là phương tiện thanh toán, đo lường và lưu giữ giá trị càng cao. Vàng hóa/đô la hóa sẽ làm giảm/mất đi tính tự chủ của chính sách tiền tệ của NHNN (theo đó là càng có ít người muốn nắm giữ hoặc dân chúng ngày càng có xu hướng giảm nắm giữ tài sản VND, là cái mà NHNN có thể tác động lên được thông qua chính sách tiền tệ của mình). Một hậu quả khác của vàng hóa/đô la hóa là tước đi/giảm khả năng thu được “thuế lạm phát” đánh lên người nắm giữ tài sản VND thông qua quyền in tiền VND tài trợ cho các chi tiêu của Chính phủ, khi số lượng người (muốn) nắm giữ tài sản VND ngày càng giảm đi.
Việc đưa ra các biện pháp để khuyến khích dân chúng gửi vàng vào hệ thống ngân hàng vô hình trung sẽ khuyến khích dân chúng quy đổi tài sản VND ra vàng, nhất là trong bối cảnh đầy bất ổn như hiện nay. Nói cách khác, dân chúng sẽ không chỉ gửi số vàng hiện đang nắm giữ mà còn bị lợi ích thôi thúc họ chuyển thêm tài sản VND sang vàng để gửi vào ngân hàng (lưu ý là dân chúng nói chung, chứ không phải là từng người dân có vàng mà có thể có hay không tài sản VND khác).
Việc quy đổi này sẽ làm tăng nhu cầu về vàng để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi tài sản của dân chúng, và sẽ dẫn đến 2 kịch bản.
Ở kịch bản 1, NHNN cho phép nhập khẩu vàng để thỏa mãn nhu cầu về vàng tăng lên của dân chúng. Kịch bản 2, lo ngại về việc tăng nhập khẩu vàng sẽ làm tăng nhu cầu USD, gây căng thẳng dự trữ ngoại tệ và, do đó, tỷ giá, NHNN không cho phép nhập khẩu vàng.
Hậu quả của kịch bản 1 là nạn vàng hóa càng trầm trọng, và theo đó là NHNN ngày càng mất đi khả năng đánh “thuế lạm phát” và khả năng kiểm soát lãi suất và tỷ giá - những hậu quả tất nhiên là không hề được mong muốn.
Sẽ có người lập luận rằng vì Việt Nam phải dùng USD để mua vàng nên mặc dù nạn vàng hóa sẽ tăng nhưng đổi lại nạn đô la hóa sẽ giảm. Vì thế, khả năng tự chủ của NHNN trong chính sách tiền tệ của mình ít nhất là không thay đổi. Nhưng nếu đúng như vậy thì Việt Nam lại phải đối mặt với một vấn đề mới, cũng là điều không mong muốn: (ngân hàng) huy động được vàng như lại mất đi ngoại tệ (USD).
Lại cũng sẽ có người chỉ ra khả năng là sẽ có một bộ phận dân chúng quy đổi tài sản ngoại tệ (USD) của mình sang vàng và gửi vào ngân hàng (với giả thiết họ thấy gửi vàng lợi hơn USD). Nhưng điều này cũng chỉ dẫn đến hậu quả như trên (ngân hàng huy động thêm được vàng nhưng lại bị giảm huy động từ đô la).
Kịch bản 2 sẽ dẫn đến giá vàng trong nước tăng cao (bất chấp chiều hướng vận động của giá vàng thế giới). Giá vàng tăng trong khi NHNN cung vàng theo kênh chính thức (nhập khẩu hợp pháp) bị chặn sẽ khuyến khích nhập khẩu vàng lậu và rốt cuộc cũng sẽ vẫn dẫn đến hậu quả như ở kịch bản 1. Ở khía cạnh này, NHNN chắc chắn sẽ không đủ tự tin để khẳng định rằng họ sẽ ngăn chặn được một cách hữu hiệu nạn nhập lậu vàng. Mà kể cả có đúng như vậy thì giá vàng tăng và kỳ vọng tăng giá vàng hơn nữa (khi nguồn cung qua nhập khẩu bị loại bỏ hoàn toàn) sẽ chỉ dẫn đến nạn đầu cơ vàng ngày càng trầm trọng hơn, cũng tức là sự chuyển đổi từ tài sản VND sang vàng ngày càng mạnh hơn. Hiển nhiên, NHNN có thể đối phó với tình trạng đầu cơ này (và cũng đồng thời là để bảo đảm rằng người dân sẽ chỉ có thể gửi vào hệ thống ngân hàng tối đa là số vàng hiện đang nắm giữ chứá không thể chuyển đổi tài sản VND sang vàng để gửi thêm để tránh nạn vàng hóa bằng một biện pháp hành chính cực đoan là cấm hoàn toàn chuyện mua bán vàng giữa dân chúng với ngân hàng và trong dân chúng với nhau. Nhưng khả năng thành công của biện pháp này cũng sẽ bấp bênh như chuyện ngăn chặn nhập khẩu vàng lậu.
Nói cách khác, cả hai kịch bản đều hầu như chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng là nạn vàng hóa càng trầm trọng hơn, dẫn đến những tổn thất khó đo đếm được từ việc đánh mất đi tính tự chủ trong chính sách tiền tệ và khả năng đánh thuế giữ tài sản VND thông qua quyền in tiền của NHNN. Huy động vàng trong dân vì thế sẽ chẳng còn ý nghĩa khi những hậu quả này cùng với những chi phí và bất trắc khác (như nói dưới đây), lớn hơn lợi ích nếu có nào đó của việc huy động vàng trong dân chúng.
Huy động vàng, theo chủ trương của NHNN, sẽ phải đi kèm với bảo hiểm giá vàng trên thị trường quốc tế. Đây là chi phí rất đáng kể. Câu hỏi cần trả lời là ai sẽ chi trả chi phí này và khi hạch toán chi phí này vào tổng chi phí huy động vàng, liệu lợi ích của việc huy động vàng, nếu có, có còn đáng kể hay không? Chưa kể, không lẽ mỗi khi có người gửi vàng, dù ít hay nhiều, theo nguyên tắc, ngân hàng phải tiến hành bảo hiểm giá vàng ngay ư, và, nếu đúng, liệu có khả thi không?
Kết luận lại, ngoài những lợi ích chỉ có thể gọi là mập mờ, tưởng tượng, chủ trương huy động vàng trong dân chúng chắc chắn sẽ chỉ mang lại những hậu quả nhãn tiền rõ ràng và không thể bỏ qua.
08:09 | 09/02/2012
Dư luận gần đây lại có thêm một dịp được khuấy động với tuyên bố của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là sẽ có chính sách huy động vàng trong dân (với dự đoán hàng trăm tấn) cho mục đích đưa vào đầu tư phát triển kinh tế, như lời Thống đốc NHNN: “Nếu chúng ta không huy động được số vàng này trong dân để phục vụ phát triển KT – XH thì đất nước chưa thể mạnh lên được”.
Nghe những lời phát biểu này, có lẽ ý nghĩ đầu tiên ập đến với không ít người là Chính phủ đang thai nghén một chủ trương tận thu mới. Nguồn lực vàng mà người dân đang nắm giữ có thể đúng là khá đáng kể, nhưng câu hỏi đặt ra là tại sao đến thời điểm này, việc huy động vàng mới được đặt ra? Người ta có thể suy diễn rằng quả đúng việc này là tận thu khi trở nên bất lực và hết bài trong điều hành kinh tế vĩ mô nên túng thì phải tính, buộc phải nhắm tới những thứ ngoài tầm với, không phải của mình, bằng những công cụ thậm chí chưa được định hình ra làm sao, có kết quả và tác hại như thế nào… Trên hết, Chính phủ và NHNN dường như chưa nhìn ra hậu quả của việc khuyến khích huy động vàng, ngoại tệ ở Việt Nam.
Khách quan mà nói thì việc huy động vàng trong dân rồi tái phân bổ lại thông qua hệ thống ngân hàng sẽ làm cho cung và cầu về vàng gặp nhau dễ dàng hơn thông qua trung gian là các ngân hàng. Có lẽ, đây là lý do có ý nghĩa và đáng kể duy nhất để biện hộ cho chủ trương này của NHNN. Nhưng điều này lại đồng nghĩa với việc khuyến khích, hợp pháp hóa, việc dân chúng chuyển đổi tài sản VND sang vàng (tức làm trầm trọng thêm nạn vàng hóa, sẽ được nói rõ thêm dưới đây) để người sở hữu vàng và gửi vào ngân hàng vừa phòng ngừa rủi ro lạm phát, vừa vẫn được hưởng một mức lãi thỏa đáng (cao hơn so với trường hợp họ tự cho vay trên thị trường tự do).
Cũng có người vạch ra lợi ích của việc huy động này là NHNN sẽ có thêm được một nguồn ngoại tệ thông qua việc hoán đổi vàng với ngân hàng nước ngoài để tăng thêm dự trữ ngoại hối của mình. Hoặc NHNN có thể sử dụng nguồn vàng huy động này để can thiệp trên thị trường vàng nội địa.
Tuy nhiên, khoản vàng huy động này dù có nằm trong tay NHNN ở dạng vàng hay ngoại tệ thì bản chất của nó vẫn là một khoản đi vay chứ không phải là một khoản thuộc sở hữu toàn quyền của NHNN để NHNN muốn sử dụng ra sao thì sử dụng mà không phải bận tâm đến việc lo trả nợ như trong trường hợp mua đứt bán đoạn. Vì thế, cho dù khuyến khích được dân yên tâm gửi vàng vào hệ thống ngân hàng và cuối cùng là nằm trong két sắt của NHNN (dưới dạng vàng hoặc ngoại tệ) chăng nữa thì, vì không phải là của mình, vẫn sẽ phải có một thời điểm (không định trước nào đó) NHNN buộc phải xuất kho vàng/ngoại tệ ra để trả nợ. Mà như vậy thì không thể coi nguồn vàng huy động được này là quỹ dự trữ vàng/ngoại hối của NHNN theo đúng nghĩa của nó (phải thuộc sở hữu để sử dụng theo ý muốn). Do đó, ý nghĩa của việc huy động vàng để tăng dự trữ vàng/ngoại tệ, để can thiệp vào thị trường vàng/ngoại tệ sẽ không còn nữa.
Tóm lại, trừ khi được cụ thể hóa bằng những lợi ích cụ thể A, B, C… và được minh chứng bằng những lập luận thuyết phục, những lý do chung chung khác như “mục đích phát triển KT - XH” và làm cho “đất nước mạnh lên”… tuyệt đối không phải là lý do xác đáng để đưa ra bất cứ một chính sách nào, đặc biệt khi nó có tầm ảnh hưởng vĩ mô lớn. Và kể cả sau này nếu NHNN có đưa ra được những lợi ích cụ thể nào đó một cách thuyết phục thì họ vẫn cần phải chứng minh được rằng những lợi ích đó là lớn hơn những tổn thất, bất lợi mang lại từ chính sách huy động vàng của mình, như nêu dưới đây.
Huy động vàng (có trả lãi kèm với bảo hiểm giá vàng) có khả năng làm trầm trọng ngay lập tức nạn “vàng hóa” trong nền kinh tế Việt Nam (với giả thiết rằng dân chúng thấy việc gửi vàng vào ngân hàng là hấp dẫn, có lợi). Xin nhấn mạnh ở đây là sẽ làm trầm trọng thêm chứ không phải là giảm đi, nạn vàng hóa. Nhiều người có trách nhiệm vẫn lầm tưởng rằng thu hút vàng (hay ngoại tệ) vào hệ thống ngân hàng có nghĩa là sẽ làm giảm nạn vàng hóa (hay đô la hóa) vì vàng (hay đô la) ở thị trường tự do (ngoài hệ thống ngân hàng) sẽ ít đi.
Thực ra, vàng hóa và/ hoặc đô la hóa cần được hiểu là tình trạng của một nền kinh tế mà ở đó dân chúng dùng (hợp pháp hoặc bất hợp pháp) vàng và/ hoặc đôla song song với bản tệ (VND). Tình trạng vàng hóa và/hoặc đôla hóa càng trầm trọng nếu sự hiện diện của vàng và/ hoặc đô la trong nền kinh tế (lưu ý là cả trong lưu thông - ngoài hệ thống ngân hàng – và trong hệ thống ngân hàng) càng lớn, và mức độ thay thế VND bằng vàng/ngoại tệ như là phương tiện thanh toán, đo lường và lưu giữ giá trị càng cao. Vàng hóa/đô la hóa sẽ làm giảm/mất đi tính tự chủ của chính sách tiền tệ của NHNN (theo đó là càng có ít người muốn nắm giữ hoặc dân chúng ngày càng có xu hướng giảm nắm giữ tài sản VND, là cái mà NHNN có thể tác động lên được thông qua chính sách tiền tệ của mình). Một hậu quả khác của vàng hóa/đô la hóa là tước đi/giảm khả năng thu được “thuế lạm phát” đánh lên người nắm giữ tài sản VND thông qua quyền in tiền VND tài trợ cho các chi tiêu của Chính phủ, khi số lượng người (muốn) nắm giữ tài sản VND ngày càng giảm đi.
Việc đưa ra các biện pháp để khuyến khích dân chúng gửi vàng vào hệ thống ngân hàng vô hình trung sẽ khuyến khích dân chúng quy đổi tài sản VND ra vàng, nhất là trong bối cảnh đầy bất ổn như hiện nay. Nói cách khác, dân chúng sẽ không chỉ gửi số vàng hiện đang nắm giữ mà còn bị lợi ích thôi thúc họ chuyển thêm tài sản VND sang vàng để gửi vào ngân hàng (lưu ý là dân chúng nói chung, chứ không phải là từng người dân có vàng mà có thể có hay không tài sản VND khác).
Việc quy đổi này sẽ làm tăng nhu cầu về vàng để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi tài sản của dân chúng, và sẽ dẫn đến 2 kịch bản.
Ở kịch bản 1, NHNN cho phép nhập khẩu vàng để thỏa mãn nhu cầu về vàng tăng lên của dân chúng. Kịch bản 2, lo ngại về việc tăng nhập khẩu vàng sẽ làm tăng nhu cầu USD, gây căng thẳng dự trữ ngoại tệ và, do đó, tỷ giá, NHNN không cho phép nhập khẩu vàng.
Hậu quả của kịch bản 1 là nạn vàng hóa càng trầm trọng, và theo đó là NHNN ngày càng mất đi khả năng đánh “thuế lạm phát” và khả năng kiểm soát lãi suất và tỷ giá - những hậu quả tất nhiên là không hề được mong muốn.
Sẽ có người lập luận rằng vì Việt Nam phải dùng USD để mua vàng nên mặc dù nạn vàng hóa sẽ tăng nhưng đổi lại nạn đô la hóa sẽ giảm. Vì thế, khả năng tự chủ của NHNN trong chính sách tiền tệ của mình ít nhất là không thay đổi. Nhưng nếu đúng như vậy thì Việt Nam lại phải đối mặt với một vấn đề mới, cũng là điều không mong muốn: (ngân hàng) huy động được vàng như lại mất đi ngoại tệ (USD).
Lại cũng sẽ có người chỉ ra khả năng là sẽ có một bộ phận dân chúng quy đổi tài sản ngoại tệ (USD) của mình sang vàng và gửi vào ngân hàng (với giả thiết họ thấy gửi vàng lợi hơn USD). Nhưng điều này cũng chỉ dẫn đến hậu quả như trên (ngân hàng huy động thêm được vàng nhưng lại bị giảm huy động từ đô la).
Kịch bản 2 sẽ dẫn đến giá vàng trong nước tăng cao (bất chấp chiều hướng vận động của giá vàng thế giới). Giá vàng tăng trong khi NHNN cung vàng theo kênh chính thức (nhập khẩu hợp pháp) bị chặn sẽ khuyến khích nhập khẩu vàng lậu và rốt cuộc cũng sẽ vẫn dẫn đến hậu quả như ở kịch bản 1. Ở khía cạnh này, NHNN chắc chắn sẽ không đủ tự tin để khẳng định rằng họ sẽ ngăn chặn được một cách hữu hiệu nạn nhập lậu vàng. Mà kể cả có đúng như vậy thì giá vàng tăng và kỳ vọng tăng giá vàng hơn nữa (khi nguồn cung qua nhập khẩu bị loại bỏ hoàn toàn) sẽ chỉ dẫn đến nạn đầu cơ vàng ngày càng trầm trọng hơn, cũng tức là sự chuyển đổi từ tài sản VND sang vàng ngày càng mạnh hơn. Hiển nhiên, NHNN có thể đối phó với tình trạng đầu cơ này (và cũng đồng thời là để bảo đảm rằng người dân sẽ chỉ có thể gửi vào hệ thống ngân hàng tối đa là số vàng hiện đang nắm giữ chứá không thể chuyển đổi tài sản VND sang vàng để gửi thêm để tránh nạn vàng hóa bằng một biện pháp hành chính cực đoan là cấm hoàn toàn chuyện mua bán vàng giữa dân chúng với ngân hàng và trong dân chúng với nhau. Nhưng khả năng thành công của biện pháp này cũng sẽ bấp bênh như chuyện ngăn chặn nhập khẩu vàng lậu.
Nói cách khác, cả hai kịch bản đều hầu như chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng là nạn vàng hóa càng trầm trọng hơn, dẫn đến những tổn thất khó đo đếm được từ việc đánh mất đi tính tự chủ trong chính sách tiền tệ và khả năng đánh thuế giữ tài sản VND thông qua quyền in tiền của NHNN. Huy động vàng trong dân vì thế sẽ chẳng còn ý nghĩa khi những hậu quả này cùng với những chi phí và bất trắc khác (như nói dưới đây), lớn hơn lợi ích nếu có nào đó của việc huy động vàng trong dân chúng.
Huy động vàng, theo chủ trương của NHNN, sẽ phải đi kèm với bảo hiểm giá vàng trên thị trường quốc tế. Đây là chi phí rất đáng kể. Câu hỏi cần trả lời là ai sẽ chi trả chi phí này và khi hạch toán chi phí này vào tổng chi phí huy động vàng, liệu lợi ích của việc huy động vàng, nếu có, có còn đáng kể hay không? Chưa kể, không lẽ mỗi khi có người gửi vàng, dù ít hay nhiều, theo nguyên tắc, ngân hàng phải tiến hành bảo hiểm giá vàng ngay ư, và, nếu đúng, liệu có khả thi không?
Kết luận lại, ngoài những lợi ích chỉ có thể gọi là mập mờ, tưởng tượng, chủ trương huy động vàng trong dân chúng chắc chắn sẽ chỉ mang lại những hậu quả nhãn tiền rõ ràng và không thể bỏ qua.
Friday, 3 February 2012
Cách thức nhanh nhất, an toàn nhất để phục hồi và tăng trưởng bền vững (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=236868
07:23 | 04/02/2012
Cuối tháng 12.2011, Tổng cục Thống kê (TCTK) có đưa ra chỉ số hàng tồn kho đầu tháng 12 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng 23% so với cùng kỳ. Tuy theo đánh giá của TCTK đây là mức chưa phải là cao vì cùng kỳ năm trước chỉ số này là 127,9%, nhưng nhiều người lại có thêm một cái cớ rất lớn để kêu gọi cắt giảm lãi suất với mục đích, theo họ, để kích cầu cho doanh nghiệp, cũng như để doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn giá rẻ hơn nhằm giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp tồn tại và mở rộng sản xuất được thì nền kinh tế mới thoát khỏi cái mà họ gọi là nguy cơ “lạm phát đình đốn”- lạm phát cao trong khi doanh nghiệp cắt giảm sản xuất, năng lực sản xuất bị phá hủy, thị trường hoảng loạn, nhập khẩu (và nhập lậu) tăng (vì thiếu hàng).
Đáng lưu ý là lời kêu gọi trên xuất phát không chỉ từ giới doanh nghiệp mà còn từ giới chuyên gia, đã tạo thêm áp lực nặng nề lên chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) theo hướng buộc phải hạ lãi suất (huy động và cho vay) trong bối cảnh lạm phát còn cao và triển vọng lạm phát thì mù mờ, còn hệ thống ngân hàng vẫn đang trong tình trạng rối bời với vấn đề thanh khoản và rủi ro đạo đức.
Nếu tỉnh táo và chịu khó suy nghĩ một chút sẽ thấy những điều vô lý trong các lập luận để đưa ra lời kêu gọi trên.
Thứ nhất, trong bối cảnh dư thừa năng lực sản xuất (ít ra là so với cầu hiện tại) làm tồn kho tăng lên, việc cần làm đầu tiên của doanh nghiệp là phải giảm giá bán để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, giảm thiểu tồn kho. Việc này tất nhiên có thể dẫn đến thua lỗ tạm thời cho doanh nghiệp, nhưng là việc bắt buộc phải làm và khả thi, ít rủi ro hơn là ngồi đó chờ đợi sự thay đổi trong chính sách vĩ mô, cụ thể trong trường hợp này là việc NHNN hạ lãi suất để kích cầu.
Tất nhiên, có không ít người vẫn hy vọng NHNN “lắng nghe và thấu hiểu” nỗi khổ của doanh nghiệp mà hạ lãi suất. Nhưng rất tiếc điều này hoặc là không luôn xảy ra như kỳ vọng, hoặc nếu có xảy ra thì cũng không phải ngay ngày mai, tuần tới, tháng tới. Kể cả nếu sớm xảy ra thì cầu hàng hóa cũng không vì thế mà tăng ngay, tăng vọt. Với những rủi ro và đầy rẫy bất trắc như vậy, việc để sự sống còn của mình vào tay người khác, nếu có, của các doanh nghiệp là điều chẳng khôn ngoan chút nào.
Thứ hai, trong bối cảnh hàng hóa đang tồn đọng, tiêu thụ chậm, doanh nghiệp nếu có vay ngân hàng thì là để cầm cự, với việc dùng vốn vay trang trải cho các nhu cầu cấp thiết như trả lương, thanh toán các đơn mua hàng, điện, nước, trả nợ… Có lẽ trừ một số hạn hữu, đa phần doanh nghiệp sẽ tránh đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhất là dựa vào vốn vay ngân hàng. Vì thế, lý do cần phải hạ lãi suất ngân hàng để doanh nghiệp tiếp tục được vay vốn giá rẻ nhằm duy trì được (quy mô) sản xuất, kinh doanh là vừa phi kinh tế, vừa rất nguy hiểm khi lãi suất được mù quáng hạ xuống. Nếu khi lãi suất hạ và doanh nghiệp quả thực lại dốc tiền vay vào mở rộng sản xuất, kinh doanh thì đương nhiên tình trạng dư thừa lại càng trầm trọng.
Về phía ngân hàng, trong bối cảnh dư thừa năng lực sản xuất, tiêu thụ sản phẩm chậm, nếu là một ngân hàng/cán bộ ngân hàng làm ăn nghiêm túc và bài bản, họ sẽ hạn chế việc (tiếp tục) tài trợ cho vay doanh nghiệp nào đó ở trong tình trạng này, đặc biệt là khi doanh nghiệåp phải thở ô xy để cầm cự cho qua ngày (theo cách mô tả của nhiều người về các doanh nghiệp hiện nay).
Như vậy việc hạ lãi suất, nếu có, của NHNN cũng sẽ không đồng nghĩa với việc các ngân hàng thương mại sẽ nối lại cho vay các doanh nghiệp, hoặc sẽ cho vay với lãi suất thấp hơn (vì lãi suất cho vay sẽ phải được điều chỉnh theo mức độ rủi ro của doanh nghiệp, vốn là cái đã và đang tăng lên song song với tình trạng không thể tiêu thụ được sản phẩm) và doanh nghiệp sẽ duy trì được quy mô sản xuất, kinh doanh… như kỳ vọng của những người nói trên.
Thứ ba, chuyện tồn kho tăng cao không phải xảy ra đối với tất cả các ngành nghề, nhóm sản phẩm, mà chỉ có một số, trong đó có vật liệu xây dựng, sắt thép, xi măng… là hậu quả của không chỉ bởi cầu sụt giảm do thắt chặt chính sách tiền tệ mà (chủ yếu) còn tất yếu do sự phát triển quá nóng, theo phong trào từ một vài năm trước đây, bất chấp lời cảnh báo của không ít chuyên gia và các nhà phân tích thị trường. Như vậy sẽ là không đúng đắn và công bằng khi đổ lỗi cho chính sách tiền tệ và bỏ qua nguyên nhân chủ quan này, và không để kinh tế thị trường trừng phạt khi người ta đã bất chấp các nguyên tắc kinh tế thị trường. Có như vậy mới có thể làm giảm rủi ro đạo đức trong sản xuất kinh doanh (cứ mỗi lúc gặp khó khăn- do chính mình tạo ra- lại kêu cứu nhà nước). Qua đó, các chủ đầu tư, chủ doanh nghiệp sẽ phải rút ra được những bài học đau đớn nhưng cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh sau này, cũng là cách thức góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững.
Cuối cùng, năng lực sản xuất có bị thu hẹp do cầu giảm cũng không nhất thiết dẫn đến thiếu hàng hóa nên phải tăng nhập khẩu (và nhập lậu), từ đó dẫn đến những hậu quả khác mà một số người kể ra như tăng thâm hụt thương mại gây áp lực lên lạm phát cũng như nhập khẩu lạm phát.
Nhập khẩu có tăng hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có nhu cầu nội địa tăng hay không mà đến lượt nó lại phụ thuộc vào cung tiền (cung tiền tăng sẽ làm tăng tổng cầu, trong đó có nhập khẩu), cũng như xuất khẩu (nhập khẩu đầu vào cho xuất khẩu), bên cạnh một số yếu tố khác. Như vậy, với chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất cao thì đương nhiên tổng cầu và, do đó, nhu cầu nhập khẩu sẽ phải giảm đi, chứ khó có thể tăng lên như người ta e sợ. Chính sách tiền tệ thắt chặt cũng có khả năng làm giảm xuất khẩu (vì giảm tín dụng cấp cho khu vực xuất khẩu) nhưng do đó cũng làm giảm nhập khẩu tương ứng, và vì thế thâm hụt thương mại không nhất thiết tăng lên. Chính sách tiền tệ thắt chặt với lãi suất ở mức cao còn có tác dụng nâng đỡ tỷ giá VND so với USD, do đó làm giảm áp lực lạm phát từ cái gọi là nhập khẩu lạm phát.
Tóm lại, không thể kết luận rằng có mối quan hệ nhân quả từ việc thắt chặt chính sách tiền tệ -> lãi suất cao -> nhu cầu giảm -> hàng tồn kho tăng -> năng lực sản xuất thu hẹp -> cung giảm -> nhập khẩu tăng, nhập lậu tăng, (và làm cho) lạm phát tăng. Hàm ý rõ ràng ở đây là Chính phủ cần phải bỏ qua những lời kêu gọi vô căn cứ, phải kiên định với chính sách tiền tệ thắt chặt để giảm áp lực lạm phát (và đến chừng nào áp lực lạm phát vẫn còn đó), và phải coi đây là cách thức nhanh nhất, an toàn nhất để phục hồi và tăng trưởng bền vững.
07:23 | 04/02/2012
Cuối tháng 12.2011, Tổng cục Thống kê (TCTK) có đưa ra chỉ số hàng tồn kho đầu tháng 12 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng 23% so với cùng kỳ. Tuy theo đánh giá của TCTK đây là mức chưa phải là cao vì cùng kỳ năm trước chỉ số này là 127,9%, nhưng nhiều người lại có thêm một cái cớ rất lớn để kêu gọi cắt giảm lãi suất với mục đích, theo họ, để kích cầu cho doanh nghiệp, cũng như để doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn giá rẻ hơn nhằm giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào sản xuất kinh doanh. Khi doanh nghiệp tồn tại và mở rộng sản xuất được thì nền kinh tế mới thoát khỏi cái mà họ gọi là nguy cơ “lạm phát đình đốn”- lạm phát cao trong khi doanh nghiệp cắt giảm sản xuất, năng lực sản xuất bị phá hủy, thị trường hoảng loạn, nhập khẩu (và nhập lậu) tăng (vì thiếu hàng).
Đáng lưu ý là lời kêu gọi trên xuất phát không chỉ từ giới doanh nghiệp mà còn từ giới chuyên gia, đã tạo thêm áp lực nặng nề lên chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) theo hướng buộc phải hạ lãi suất (huy động và cho vay) trong bối cảnh lạm phát còn cao và triển vọng lạm phát thì mù mờ, còn hệ thống ngân hàng vẫn đang trong tình trạng rối bời với vấn đề thanh khoản và rủi ro đạo đức.
Nếu tỉnh táo và chịu khó suy nghĩ một chút sẽ thấy những điều vô lý trong các lập luận để đưa ra lời kêu gọi trên.
Thứ nhất, trong bối cảnh dư thừa năng lực sản xuất (ít ra là so với cầu hiện tại) làm tồn kho tăng lên, việc cần làm đầu tiên của doanh nghiệp là phải giảm giá bán để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, giảm thiểu tồn kho. Việc này tất nhiên có thể dẫn đến thua lỗ tạm thời cho doanh nghiệp, nhưng là việc bắt buộc phải làm và khả thi, ít rủi ro hơn là ngồi đó chờ đợi sự thay đổi trong chính sách vĩ mô, cụ thể trong trường hợp này là việc NHNN hạ lãi suất để kích cầu.
Tất nhiên, có không ít người vẫn hy vọng NHNN “lắng nghe và thấu hiểu” nỗi khổ của doanh nghiệp mà hạ lãi suất. Nhưng rất tiếc điều này hoặc là không luôn xảy ra như kỳ vọng, hoặc nếu có xảy ra thì cũng không phải ngay ngày mai, tuần tới, tháng tới. Kể cả nếu sớm xảy ra thì cầu hàng hóa cũng không vì thế mà tăng ngay, tăng vọt. Với những rủi ro và đầy rẫy bất trắc như vậy, việc để sự sống còn của mình vào tay người khác, nếu có, của các doanh nghiệp là điều chẳng khôn ngoan chút nào.
Thứ hai, trong bối cảnh hàng hóa đang tồn đọng, tiêu thụ chậm, doanh nghiệp nếu có vay ngân hàng thì là để cầm cự, với việc dùng vốn vay trang trải cho các nhu cầu cấp thiết như trả lương, thanh toán các đơn mua hàng, điện, nước, trả nợ… Có lẽ trừ một số hạn hữu, đa phần doanh nghiệp sẽ tránh đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhất là dựa vào vốn vay ngân hàng. Vì thế, lý do cần phải hạ lãi suất ngân hàng để doanh nghiệp tiếp tục được vay vốn giá rẻ nhằm duy trì được (quy mô) sản xuất, kinh doanh là vừa phi kinh tế, vừa rất nguy hiểm khi lãi suất được mù quáng hạ xuống. Nếu khi lãi suất hạ và doanh nghiệp quả thực lại dốc tiền vay vào mở rộng sản xuất, kinh doanh thì đương nhiên tình trạng dư thừa lại càng trầm trọng.
Về phía ngân hàng, trong bối cảnh dư thừa năng lực sản xuất, tiêu thụ sản phẩm chậm, nếu là một ngân hàng/cán bộ ngân hàng làm ăn nghiêm túc và bài bản, họ sẽ hạn chế việc (tiếp tục) tài trợ cho vay doanh nghiệp nào đó ở trong tình trạng này, đặc biệt là khi doanh nghiệåp phải thở ô xy để cầm cự cho qua ngày (theo cách mô tả của nhiều người về các doanh nghiệp hiện nay).
Như vậy việc hạ lãi suất, nếu có, của NHNN cũng sẽ không đồng nghĩa với việc các ngân hàng thương mại sẽ nối lại cho vay các doanh nghiệp, hoặc sẽ cho vay với lãi suất thấp hơn (vì lãi suất cho vay sẽ phải được điều chỉnh theo mức độ rủi ro của doanh nghiệp, vốn là cái đã và đang tăng lên song song với tình trạng không thể tiêu thụ được sản phẩm) và doanh nghiệp sẽ duy trì được quy mô sản xuất, kinh doanh… như kỳ vọng của những người nói trên.
Thứ ba, chuyện tồn kho tăng cao không phải xảy ra đối với tất cả các ngành nghề, nhóm sản phẩm, mà chỉ có một số, trong đó có vật liệu xây dựng, sắt thép, xi măng… là hậu quả của không chỉ bởi cầu sụt giảm do thắt chặt chính sách tiền tệ mà (chủ yếu) còn tất yếu do sự phát triển quá nóng, theo phong trào từ một vài năm trước đây, bất chấp lời cảnh báo của không ít chuyên gia và các nhà phân tích thị trường. Như vậy sẽ là không đúng đắn và công bằng khi đổ lỗi cho chính sách tiền tệ và bỏ qua nguyên nhân chủ quan này, và không để kinh tế thị trường trừng phạt khi người ta đã bất chấp các nguyên tắc kinh tế thị trường. Có như vậy mới có thể làm giảm rủi ro đạo đức trong sản xuất kinh doanh (cứ mỗi lúc gặp khó khăn- do chính mình tạo ra- lại kêu cứu nhà nước). Qua đó, các chủ đầu tư, chủ doanh nghiệp sẽ phải rút ra được những bài học đau đớn nhưng cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh sau này, cũng là cách thức góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững.
Cuối cùng, năng lực sản xuất có bị thu hẹp do cầu giảm cũng không nhất thiết dẫn đến thiếu hàng hóa nên phải tăng nhập khẩu (và nhập lậu), từ đó dẫn đến những hậu quả khác mà một số người kể ra như tăng thâm hụt thương mại gây áp lực lên lạm phát cũng như nhập khẩu lạm phát.
Nhập khẩu có tăng hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có nhu cầu nội địa tăng hay không mà đến lượt nó lại phụ thuộc vào cung tiền (cung tiền tăng sẽ làm tăng tổng cầu, trong đó có nhập khẩu), cũng như xuất khẩu (nhập khẩu đầu vào cho xuất khẩu), bên cạnh một số yếu tố khác. Như vậy, với chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất cao thì đương nhiên tổng cầu và, do đó, nhu cầu nhập khẩu sẽ phải giảm đi, chứ khó có thể tăng lên như người ta e sợ. Chính sách tiền tệ thắt chặt cũng có khả năng làm giảm xuất khẩu (vì giảm tín dụng cấp cho khu vực xuất khẩu) nhưng do đó cũng làm giảm nhập khẩu tương ứng, và vì thế thâm hụt thương mại không nhất thiết tăng lên. Chính sách tiền tệ thắt chặt với lãi suất ở mức cao còn có tác dụng nâng đỡ tỷ giá VND so với USD, do đó làm giảm áp lực lạm phát từ cái gọi là nhập khẩu lạm phát.
Tóm lại, không thể kết luận rằng có mối quan hệ nhân quả từ việc thắt chặt chính sách tiền tệ -> lãi suất cao -> nhu cầu giảm -> hàng tồn kho tăng -> năng lực sản xuất thu hẹp -> cung giảm -> nhập khẩu tăng, nhập lậu tăng, (và làm cho) lạm phát tăng. Hàm ý rõ ràng ở đây là Chính phủ cần phải bỏ qua những lời kêu gọi vô căn cứ, phải kiên định với chính sách tiền tệ thắt chặt để giảm áp lực lạm phát (và đến chừng nào áp lực lạm phát vẫn còn đó), và phải coi đây là cách thức nhanh nhất, an toàn nhất để phục hồi và tăng trưởng bền vững.
Subscribe to:
Posts (Atom)
Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ
(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).