Sunday 30 October 2016

Xã hội chung tay xử lý nợ xấu: Phải rạch ròi, chuyện nào ra chuyện đó! (Bài đăng trên CafeF, 30/10/2016, bản gốc)

http://cafef.vn/xa-hoi-chung-tay-xu-ly-no-xau-phai-rach-roi-chuyen-nao-ra-chuyen-do-20161030165024287.chn

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch Hội đồng thành viên VAMC, cho rằng cần có cái nhìn khách quan về nợ xấu. Nợ xấu không phải là do một mình hệ thống ngân hàng gây ra mà ngân hàng chỉ là một trong những nguyên nhân. Nợ xấu ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế vì vậy cần cả xã hội chung tay xử lý nợ xấu trên tinh thần công khai, minh bạch.

Ông Hùng đã nói đúng rằng ngân hàng chỉ là một trong những nguyên nhân gây ra nợ xấu. Có những nguyên nhân khác như Chính phủ bảo lãnh cho vay hoặc Chính phủ chỉ đạo ngân hàng thương mại cho vay một doanh nghiệp nào đó, phần nhiều là doanh nghiệp nhà nước, để rồi doanh nghiệp đó mất khả năng trả nợ nhưng Chính phủ không chi trả khoản nợ của doanh nghiệp với ngân hàng. Có cả nguyên nhân như một số doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để thực hiện các hợp đồng với Chính phủ nhưng vì lý do nào đó Chính phủ không thanh toán các hợp đồng nên đẩy doanh nghiệp vào đường cùng, mất khả năng trả nợ...
Trong những trường hợp vì một lý do khách quan như trên thì đúng là ngân hàng là một nạn nhân nhiều hơn là một tội đồ gây ra nợ xấu. Cách thức giải quyết nợ xấu trong những trường hợp này đương nhiên không phải là trông chờ, phó mặc cho ngân hàng tự loay hoay với đống nợ xấu do người khác để lại, mà phải là có sự chung tay, có sự chịu trách nhiệm của bên liên đới. Nếu ngân sách, và tức là tiền của dân, phải bỏ ra để đền bù trong những trường hợp này thì cũng là điều tất yếu và công bằng. Nhưng nếu đã đến mức độ này rồi thì phải quy trách nhiệm cho những ai đã tạo ra những lý do “khách quan” như vậy, chứ không thể để xảy ra tình trạng tiền dân là tiền “chùa”, muốn phá thế nào thì phá.

Trong những trường hợp còn lại, mà phần nhiều là lý do chủ quan, từ phía ngân hàng, thì đương nhiên trách nhiệm giải quyết nợ xấu phải là của ngân hàng. Kể cả trong trường hợp mà nhiều người hay viện dẫn “kinh tế khó khăn” làm nhiều doanh nghiệp đóng cửa, phá sản, mất khả năng thanh toán thì đó cũng không phải là lỗi/lý do khách quan mà vẫn là lỗi của ngân hàng khi đã không tỉnh táo xem xét trước khi cho vay. Đặt một câu hỏi đơn giản, tại sao các ngân hàng khác không bị “vướng” vào những doanh nghiệp đóng cửa, phá sản này mà chỉ có một (số) ngân hàng cụ thể? Kinh tế thị trường đòi hỏi mọi chủ thể phải tự chịu trách nhiệm với các quyết định kinh doanh của mình mà khó có thể đổ lỗi cho ai khác, trừ những trường hợp thật sự khách quan như nói ở trên.
Chuyển sang vấn đề xã hội chung tay để giải quyết nợ xấu như ông Hùng kêu gọi. Như đã nói, trừ những trường hợp Chính phủ liên quan trực tiếp và là nguyên nhân gây ra nợ xấu thì cần thiết phải dùng ngân sách để đền bù cho ngân hàng. Xử lý nợ xấu trong những trường hợp này chỉ đơn giản là vậy, chẳng có gì phải vòng vo, phức tạp, cơ chế nọ kia.

Các trường hợp còn lại, sự chung tay của xã hội, nếu có, chỉ là sự cùng nhau thúc đẩy, giải quyết những điểm nghẽn trong xử lý nợ xấu, mà phần nhiều bằng cơ chế, đúng như một chuyên gia nào đó đã nói, chứ không phải là bằng việc kêu gọi, đòi hỏi ngân sách nhà nước (hoặc nói một cách bí hiểm hơn là “nguồn lực nhà nước”) phải chi tiền ra như một số người đang hào hứng kêu gọi.
Bởi, như đã nói đến đôi lần, trong cơ chế hiện tại, dù có muốn dùng ngân sách để xử lý nợ xấu theo đề xuất của một số người, kiểu như mua nợ xấu bằng tiền thật, theo giá thị trường v.v… thì nợ xấu mua về chắc chắn vẫn sẽ chỉ nằm ùn tắc thêm ở VAMC mà không thể thoát đi đâu được vì bản thân VAMC bây giờ cũng đang lúng túng với đống nợ xấu mà họ đang nắm với những lý do mà ông Hùng đã vạch ra cặn kẽ.

Trong khi đó, sự khai thông về cơ chế, chẳng hạn cho phép mua bán nợ với bên thứ ba, tạo thuận lợi cho việc thu giữ, phát mãi tài sản thế chấp v.v… chắc chắn không những sẽ thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu mà còn mang lại tính hiệu quả cao vì là xử lý theo cơ chế thị trường. Mà cũng lạ, chuyện hiển nhiên như vậy, ngay cả người trong cuộc đã khẩn thiết kêu gọi như vậy mà dường như không ai nhận thấy, muốn xắn tay vào cùng nhau giải quyết, thay vào đó lại chỉ nhăm nhăm kêu gọi ngân sách phải bỏ tiền ra mua lại hết nợ xấu của ngân hàng, để giúp ngân hàng “vượt khó, thoát nghèo”!

Đến đây, có một điều rất quan trọng cần phải lưu ý. Đó là lời kêu gọi tạo những cơ chế thuận lợi riêng cho VAMC với lý do là không thế thì không thúc đẩy được quá trình xử lý nợ xấu. Điều này chỉ đúng một nửa. Vì VAMC về bản chất cũng chỉ là một AMC (tổ chức xử lý nợ của ngân hàng thương mại), cùng có mục đích là xử lý nợ (xấu) trong hệ thống ngân hàng, nên tại sao chỉ tạo cơ chế riêng cho VAMC mà không mở rộng cơ chế này cho cả các AMC của các ngân hàng thương mại khác? Nếu chỉ tạo cơ chế riêng cho VAMC thì có khác gì vẫn buộc nút việc xử lý nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng?
Hơn nữa, cũng không khó để nhìn thấy trước kết cục trong tương lai gần, VAMC sẽ lại tiếp tục “ca” bài “nguồn lực hạn chế về con người và mạng lưới hoạt động, trong khi số lượng khoản nợ VAMC mua rất lớn… nên VAMC chưa thể trực tiếp quản lý… việc tổ chức thực hiện xử lý tài sản để thu hồi nợ kém hiệu quả” mà ông Hùng đang trần tình trước thiên hạ. Lúc đó, có lẽ VAMC muốn và sẽ trở thành một “siêu tổ chức” độc quyền trong chuyện giải quyết nợ xấu, còn các AMC khác vẫn mãi chỉ là để làm cảnh, nên tốt nhất là dẹp đi cho đỡ tốn kém.

Tóm lại, xã hội chung tay xử lý nợ xấu là việc cần làm nhưng sự chung tay này phải có giới hạn, có lựa chọn việc cần và có thể cùng nhau làm. Xã hội chung tay xử lý nợ xấu tuyệt đối không luôn đồng nghĩa với ngân sách, và tức là người dân phải bỏ tiền ra để cứu trợ ngân hang.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).