Wednesday, 22 March 2017

Không nên trao cho VAMC quá nhiều quyền (Bài đăng trên TBKTSG, 22/3/2017, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/157983/Khong-nen-trao-cho-VAMC-qua-nhieu-quyen.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã xây dựng dự thảo nghị định quy định về thẩm định giá khởi điểm khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu để trình Chính phủ. Nhìn chung, dự thảo nghị định này nếu được thông qua thì sẽ trao cho VAMC nhiều quyền và nghĩa vụ không cần thiết, và, quan trọng hơn, sẽ đi ngược lại tinh thần khách quan mà NHNN nhấn mạnh xuyên suốt dự thảo.
Đồng tiền không đi liền khúc ruột

Về nguyên tắc, nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng bán cho VAMC để đổi lấy trái phiếu đặc biệt theo giá trị sổ sách trừ đi khoản trích lập dự phòng chưa sử dụng đến thì không phải là tài sản toàn quyền quyết định của VAMC. Sau khi mua về, nếu VAMC xử lý được nợ xấu và tài sản bảo đảm và thu được tiền từ việc xử lý này thì họ sẽ giữ lại một phần của khoản thu này dưới dạng “hoa hồng” và hoàn trả phần còn lại khoản thu về này cho tổ chức tín dụng bán nợ xấu. Nếu không xử lý được thì sau 5 năm tổ chức tín dụng phải mua lại số nợ xấu này đúng bằng giá trị số trái phiếu đặc biệt mà VAMC lúc ban đầu đã trả cho tổ chức tín dụng. VAMC cũng không phải trích lập dự phòng mua nợ xấu từ tổ chức tín dụng.

Nói cách khác, VAMC chỉ là nơi giữ và xử lý hộ nợ xấu cho các tổ chức tín dụng, và không chịu áp lực phải xử lý nợ xấu với tư cách là chủ nợ như của tổ chức tín dụng. Ngoài ra, tuy sẽ được hưởng hoa hồng nhưng động cơ làm VAMC phải cố gắng hết mức để bán được nợ xấu và tài sản bảo đảm với giá cao nhất sẽ nhiều khi không mạnh bằng động cơ muốn bán cho nhanh, dù với giá thấp, miễn là được việc. Chuyện này cũng tương tự như người môi giới bất động sản nhiều khi chú trọng đến tính thành công của giao dịch hơn là cố gắng giúp bên bán bán được giá cao nhất nhưng giao dịch sẽ bị chậm lại vì phải thuyết phục người mua hoặc phải tốn thời gian và nhọc công tìm người mua khác trả giá cao hơn.
Tương tự như vậy là về vị thế của bên bảo đảm (chủ tài sản bảo đảm) cho khoản nợ xấu và của VAMC. Tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu dù có thể đang “nằm kẹt” ở VAMC nhưng trên giấy tờ pháp lý thì vẫn thuộc về sở hữu của bên bảo đảm cho khoản nợ xấu, chứ không phải là VAMC.

Do vậy, về lý, trong trường hợp nợ xấu được mua bằng trái phiếu đặc biệt, chủ nhân thực sự của khoản nợ xấu (hoặc tài sản bảo đảm) và muốn xử lý nợ xấu (hoặc tài sản bảo đảm) nhanh nhất và tối đa hóa giá trị thu về nhất chính là tổ chức tín dụng bán nợ xấu (hoặc chủ tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu), chứ không phải là VAMC. Vì thế, nếu không thỏa thuận được giá khởi điểm của khoản nợ xấu mua bằng trái phiếu đặc biệt (và tài sản bảo đảm) thì tốt nhất là phải để cho tổ chức tín dụng (hoặc chủ tài sản bảo đảm) lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá và có tiếng nói quyết định hơn trong Hội đồng đấu giá nợ xấu và tài sản bảo đảm thì mới đảm bảo tính khách quan (đảm bảo không có xung đột lợi ích).
Nhưng theo dự thảo thì VAMC lại được quyền chọn và thuê doanh nghiệp thẩm định giá đồng thời lập Hội đồng đấu giá nợ xấu mà Chủ tịch là người của VAMC và là người có tiếng nói cuối cùng (ví dụ, khi bỏ phiếu với kết quả khác nhau có tỷ lệ bằng nhau). Nếu như vậy thì sẽ có rủi ro là VAMC sẽ chọn doanh nghiệp thẩm định giá và tổ chức đấu giá sao cho “được việc” cho họ nhất mà phần thiệt hại chủ yếu rơi vào bên tổ chức tín dụng bán nợ xấu hoặc chủ tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu.

Nếu lo ngại rằng giá khởi điểm được xác định bởi doanh nghiệp thẩm định giá do tổ chức tín dụng (hoặc chủ tài sản bảo đảm) lựa chọn có thể sẽ là quá cao, khó đấu giá thành công, và lấy chuyện này làm lý do trao quyền cho VAMC được lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá (có thể là thấp hơn, phù hợp hơn với thị trường) thì lý do này cũng không thỏa đáng. Bởi đơn giản là đã có điều khoản trong dự thảo cho phép các lần đấu giá tiếp theo được giảm giá khởi điểm (tối đa không quá 10%). Theo đó, dù doanh nghiệp thẩm định giá do tổ chức tín dụng bán nợ xấu (hoặc chủ tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu) có đưa ra một giá khởi điểm quá cao dẫn đến đấu giá thất bại chăng nữa thì sau một vài lần hạ giá khởi điểm, nó sẽ trở nên “phù hợp” hơn, hấp dẫn nhà đầu tư hơn, và rốt cuộc thì đấu giá sẽ phải thành công.
Và suy cho cùng, nếu đã là đấu giá công khai, minh bạch thì chẳng cần VAMC phải tự tổ chức đấu giá, vì việc đấu giá có thể thuê một tổ chức độc lập chuyên nghiệp được cấp phép tiến hành thì sẽ hiệu quả và khách quan hơn, cũng giống như việc ai đó có một tác phẩm nghệ thuật có thể thuê một tổ chức đấu giá bán hộ tác phẩm này cho mình. VAMC đúng ra chỉ có vai trò khi, ví dụ, tổ chức tín dụng hay chủ tài sản bảo đảm vì một lý do nào đó chần chừ, không hợp tác, tổ chức đấu giá thì lúc đó VAMC cần thiết phải đứng ra thuê doanh nghiệp thẩm định giá, thuê tổ chức đấu giá, hoặc tự tổ chức đấu giá (nếu bắt buộc phải vậy) để giải quyết nhanh tình trạng nợ xấu dồn ứ trong “kho” nợ xấu mà họ mua về. Khả năng này mới nên, mới cần đưa vào trong dự thảo.

Đương nhiên, với trường hợp nợ xấu được VAMC mua theo giá thị trường, tức bằng “tiền tươi thóc thật” thì đó có thể coi là tài sản toàn quyền và là chuyện nội bộ của VAMC và, do đó, họ có toàn quyền quyết định việc xử lý, bán lại tài sản này như thế nào (đấu giá hay bán trực tiếp…) để bảo toàn vốn (và có lãi), đồng thời chịu trách nhiệm trước cơ quan chủ quản và trước pháp luật về hoạt động của mình, giống như một doanh nghiệp nhà nước đơn thuần. Nên việc quy định về thuê doanh nghiệp thẩm định giá, lập Hội đồng đấu giá… như trong dự thảo là không liên quan, không cần thiết, và nếu cứ nhất định phải có thì cũng chỉ là hình thức mà thôi. 
Nếu được chọn thì VAMC cũng không chắc chọn được doanh nghiệp thẩm định giá phù hợp

Mặc dù dự thảo quy định VAMC ban hành tiêu chuẩn, quy trình xem xét, quyết định lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá,  nhưng do việc lựa chọn này diễn ra trước khi doanh nghiệp thực sự bắt tay vào thẩm định giá nên VAMC nói riêng hay NHNN và Chính phủ nói chung không thể có cách nào biết trước một cách chắc chắn rằng giá khởi điểm mà doanh nghiệp được lựa chọn đưa ra là phù hợp, “chuẩn” nhất. Thực tế ở Việt Nam trước đây cũng cho thấy có những vụ việc mà việc định giá cùng một tài sản của các doanh nghiệp thẩm định giá cho ra các kết quả chênh lệch nhau đến hàng nghìn tỷ đồng.

Nói như trên là để thấy một điều đơn giản là trao quyền cho VAMC lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá vừa tạo ra xung đột lợi ích (với tổ chức tín dụng bán nợ xấu hoặc chủ tài sản bảo đảm khoản nợ xấu), vừa vẫn có khả năng gây thiệt hại cho tất cả các bên liên quan khi giá trị nợ xấu hoặc tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu bị định giá quá thấp. Do đó, nếu không muốn trao quyền cho bên tổ chức tín dụng bán nợ xấu hoặc chủ tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu được chọn doanh nghiệp thẩm định giá thì dự thảo cũng nên có một điều khoản xử lý trường hợp giá được thẩm định bởi một doanh nghiệp thẩm định giá do VAMC lựa chọn cũng không được đồng thuận bởi các bên liên quan khác.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).