Thursday, 2 March 2017

Những con số cho thấy robot không phải là mối đe dọa đáng sợ cho công nhân dệt may Việt Nam (Bài đăng trên CafeF, 2/3/2017)

http://cafef.vn/nhung-con-so-cho-thay-robot-khong-phai-la-moi-de-doa-dang-so-cho-cong-nhan-det-may-viet-nam-20170302132832832.chn 

Năm ngoái Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) công bố một báo cáo cho thấy những ước tính “đáng sợ” như sẽ có khoảng 56% người lao động tại 5 quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có nguy cơ mất việc vì robot, đặc biệt là ngành may mặc, trong hai thập kỷ tới.
Báo cáo này ước tính cụ thể thêm rằng, với Việt Nam sẽ có đến 86% công nhân ngành may mặc đối mặt với nguy cơ mất việc cao do xu hướng tự động hóa. Tuy nhiên, xét trên nhiều khía cạnh, xu hướng tự động hóa trong những ngành thâm dụng lao động như dệt may và da giầy ở Việt Nam sẽ không những không phải là một mối đe dọa mang tính tiêu cực mà còn là một xu thế tất yếu đáng hoan nghênh.
Trước tiên, hãy nhìn vào cơ cấu và xu hướng biến động về dân số và lực lượng lao động ở Việt Nam. Có một số báo cáo chính thức, như bộ phận thống kê ASEAN (ASEANstats) cho thấy một số diễn biến đáng lo ngại về dân số và lực lượng lao động Việt Nam.
Cụ thể dân số Việt Nam hiện đang tăng trưởng chậm lại đáng kể. Dân số Việt nam đạt 90,7 triệu người trong năm 2014, tăng bình quân 1,06%/năm trong giai đoạn 2009-2014 – mức thấp nhất trong vòng 35 năm gần đây. Đây cũng là mức thấp nhất nếu so với mức tăng trưởng bình quân trong khu vực là 1,3%/năm.
Tỷ suất sinh giảm đồng thời tuổi thọ tăng lên làm cho Việt Nam bắt đầu bước vào thời kỳ “già hóa dân số”, với tỷ lệ dân số trên 65 tuổi đang tăng lên nhanh, mặc dù đang có cơ cấu “dân số vàng” (tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động là 64,9% hơn gấp đôi dân số trong độ tuổi phụ thuộc - gồm 23,5% dân số dưới 15 tuổi và 7,1% dân số trên 65 tuổi).
Xu hướng già hóa dân số nói trên tiếp tục trong những năm tới sẽ dẫn đến một hệ quả không thể đảo ngược là dân số trong độ tuổi lao động sẽ giảm dần, làm gia tăng áp lực tiền lương. Tiền lương thậm chí sẽ tăng nhanh hơn cả tốc độ tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động.
Thực tế, xu hướng tiền lương gia tăng nhanh hơn tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động đã và đang diễn ra ở Việt Nam mấy năm gần đây. Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương cho thấy tiền lương thực tế của Việt Nam (gần đây) tăng bình quân 8%/năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP và năng suất lao động (4,2%năm). Trong dài hạn hơn, chẳng hạn sau 2 thập kỷ nữa, chắc chắn vấn đề tăng lương nhanh hơn tăng năng suất lao động sẽ càng trầm trọng hơn, chứ không thể dịu bớt đi, trừ khi có các biện pháp đối phó hữu hiệu.
Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để đối phó với tình trạng khan hiếm lao động và gia tăng chi phí nhân công là thực hiện tự động hóa, robot hóa các công đoạn sản xuất thâm dụng lao động mà máy móc có thể làm thay con người. Tự động hóa đã và sẽ mang lại những kết quả rất ấn tượng cho doanh nghiệp.
Ví dụ, theo dữ liệu công bố trong một bài viết trên tờ Financial Times ngày 24/2/2017, có 77,4% trong số các công ty khảo sát tại Trung Quốc cho biết chi phí mua và lắp đặt robot trong các dây chuyền sản xuất đã được thu hồi trong 3 năm ( tất nhiên là trong số này có một số công ty được nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí trang bị robot).

Quan trọng hơn có đến 96,8% các công ty này cho biết có sự cải thiện rõ ràng về hiệu suất hoạt động sau khi lắp đặt robot, với năng suất lao động tăng trung bình 27%, trong khi có 77,4% doanh nghiệp cho biết chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm đã giảm.
Năng suất lao động tăng và chi phí sản xuất giảm được thể hiện bằng những con số cụ thể. Ví dụ, công ty Henghui Funiture ở Quảng Đông, nơi đã cắt giảm được 40 trong số 200 nhân công trong vòng 2 năm sau khi lắp đặt robot, đã tiết kiệm được 1,9 triệu Nhân dân tệ tiền lương một năm, tương đương với chi phí trang bị robot, trong khi lợi nhuận tăng thêm 10% so với mức tăng hàng năm khoảng 5-10% trước đây.
Lợi ích về phía doanh nghiệp là như vậy. Về phía người lao động, hiển nhiên là sẽ có một bộ phận lao động nhất là lao động giản đơn, không có kỹ năng, sẽ bị đào thải trong quá trình các doanh nghiệp trang bị robot. Trở lại với số liệu nêu trên trong bài viết ở tờ Financial Times, 74,2% các công ty được khảo sát cho biết công nhân đã giảm sau khi lắp robot, trong khi đó có đến 80,6 % số các công ty đã cắt giảm lao động giản đơn.
Tuy vậy, xu hướng robot hóa lại mở ra một con đường mới cho người lao động. Các vị trí làm việc liên quan đến robot đòi hỏi kiến thức chuyên biệt về máy móc và lập trình, và điều này dẫn đến sự thiếu hụt (và theo đó là tiền lương tăng lên cho) lao động có kỹ năng. Bởi vậy, các ngành và khóa đào tạo liên quan cũng bùng nổ tương ứng, đáp ứng nhu cầu mới của doanh nghiệp và người lao động.
Với một bộ phận những người lao động bị dôi dư sau khi doanh nghiệp lắp đặt robot mà không thể chuyển dịch sang vị trí liên quan đến robot, tình hình cũng không hoàn toàn tuyệt vọng. Cũng theo bài báo cáo trên, một số doanh nghiệp đã đào tạo lại và sắp xếp cho các lao động dôi dư vào các vị trí khác như kiểm tra chất lượng sản phẩm. Cũng có những doanh nghiệp nhờ năng suất lao động, cải thiện hiệu quả kinh doanh do lắp đặt robot nên đã mở rộng quy mô doanh nghiệp nhanh chóng, nhờ thế mà có điều kiện tái tuyển dụng hầu hết những lao động dư thừa vào vị trí robot không thể đảm nhiệm được.
Nhìn từ góc độ toàn bộ nền kinh tế xã hội, xu hướng tự động hóa trước hết là hoàn toàn phù hợp với và là một lời giải hữu hiệu cho chủ trương của nhà nước nhằm chuyển đổi kinh tế theo hướng chú trọng đến chất lượng tăng trưởng, cải thiện tính cạnh tranh, tăng năng suất lao động và giá trị gia tăng trong bối cảnh đang diễn ra tình trạng già hóa dân số. Tự động hóa, robot hóa cũng mang đến những lợi ích to lớn và ít ngờ tới như giảm thiểu tình trạng di dân cơ học từ nông thôn ra các trung tâm kinh tế và công nghiệp làm quá tải cơ sở hạ tầng tại đó, đi kèm với những hệ lụy kinh tế xã hội to lớn.
Tất nhiên trong quá trình tự động hóa sẽ làm gia tăng những tranh chấp lao động giữa giới lao động và chủ doanh nghiệp, cũng như một số vấn nạn đi kèm như tỷ lệ thất nghiệp có thể gia tăng trong một giai đoạn, một số khu vực cụ thể nào đó. Lúc này, chính quyền có một vai trò quan trọng trong việc chuyển giao công việc từ người sang máy móc trở nên êm thấm hơn, thông qua những chính sách hỗ trợ đào tạo kỹ năng, chuyển dịch lao động từ ngành, doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, trợ cấp cho lao động mất việc, hỗ trợ doanh nghiệp tái sắp xếp lao động, phát triển ngành nghề thu hút lao động tại địa phương…

Suy cho cùng, dẫu vẫn sẽ có một bộ phận doanh nghiệp, ngành nghề và người lao động bị ảnh hưởng bởi quá trình động hóa nhưng đây là một xu hướng tất yếu khi đất nước đang “già” đi nhưng lại muốn leo lên bậc thang mới về giá trị gia tăng và năng suất lao động.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).