Sunday, 17 December 2017

Tiếp tục gỡ nút thắt cổ phần hóa DNNN (Bài đăng trên TBKTSG, 17/12/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/266339/Tiep-tuc-go-nut-that-co-phan-hoa-DNNN.html

Chính phủ mới ban hành Nghị định 126/2017/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do DNNN đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần. Theo đó, nghị định này sẽ chặt hơn trong một số nội dung nhưng lại thoáng hơn ở mộc số nội dung khác. Do khuôn khổ bài viết có hạn, ở đây chỉ nêu ra một số điểm liên quan đến điều kiện và đối tượng DNNN thực hiện cổ phần hóa, đối tượng mua cổ phần là nhà đầu tư chiến lược và giá bán cổ phần cho họ.
Thứ nhất, Nghị định 126 đã quy định chi tiết hơn về điều kiện cổ phần hóa so với Nghị định 59/2011/NĐ-CP và các nghị định sửa đổi Nghị định 59. Theo Nghị định 126, trong trường hợp các doanh nghiệp sau khi đã được xử lý tài chính và xác định lại giá trị doanh nghiệp mà giá trị thực tế doanh nghiệp thấp hơn các khoản phải trả thì chỉ các doanh nghiệp thuộc danh mục Nhà nước tiếp tục nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần khi cổ phần hóa mới cần phải phối hợp với Công ty Mua bán nợ Việt Nam (VAMC) và các chủ nợ của doanh nghiệp xây dựng phương án mua bán nợ để tái cơ cấu doanh nghiệp. Trong khi đó, theo Nghị định 59, đối tượng thực hiện việc này là tất cả các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa có giá trị thực tế doanh nghiệp thấp hơn các khoản phải trả.
Như vậy, Nghị định 126 đã mở ra lối thoát thêm cho một số doanh nghiệp không thuộc đối tượng Nhà nước nắm trên 50% cổ phần gặp khó khăn tài chính trong quá trình cổ phần hóa mà nếu theo các quy định cũ trước đây thì có nhiều khả năng cứ bị treo ở đó, không cổ phần hóa được mà cũng không thể thực hiện các hình thức chuyển đổi khác (gồm cả phá sản) được vì cứ phải thực hiện phương án tái cơ cấu nợ thông qua VAMC và các chủ nợ vốn rất gian nan, mất thời gian mà không chắc đã đi đến kết quả ngã ngũ gì.
Thứ hai, Nghị định 126 cũng có thêm một điểm mới liên quan đến đối tượng cổ phần hóa, là việc Nhà nước không cấp thêm vốn để cổ phần hóa. Quy định này có lẽ nhằm tránh khả năng nếu rót vốn thì không những Nhà nước tự biến thành con tin của DNNN khi tiếp tục phải rót vốn khi DNNN không phục hồi được, mà còn đi ngược lại một trong những mục đích cổ phần hóa là để giảm gánh nặng cho ngân sách. Quy định rõ ràng như thế này đã gạt bỏ lối tư duy hiện hữu là muốn cổ phần hóa thành công DNNN có tài chính yếu kém thì Nhà nước phải rót vốn bổ sung để DNNN có giá trị thực tế lớn hơn 0, và/hoặc để DNNN hoạt động (bình thường) được nhằm thu hút nhà đầu tư cho việc cổ phần hóa.
Thứ ba, về đối tượng mua cổ phần, Nghị định 126 quy định chặt chẽ, cụ thể và chi tiết hơn về nhà đầu tư chiến lược, như phải có kết quả kinh doanh 2 năm gần nhất có lãi, cam kết tiếp tục duy trì ngành nghề kinh doanh chính và thương hiệu của doanh nghiệp cổ phần hóa trong thời gian ít nhất 3 năm kể từ thời điểm chính thức trở thành nhà đầu tư chiến lược … Việc tiêu chuẩn hóa, luật hóa các điều kiện thế này, tuy vẫn còn một số điều có thể gây tranh cãi về sự cần thiết, ít nhất cũng tạo ra một sự minh bạch về tiêu chuẩn và việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, giảm thiểu khả năng “chọn nhầm” những nhà đầu tư chỉ quan tâm đến “đánh nhanh thắng nhanh”, mua cổ phần với mục đích đầu cơ hơn là đầu tư, hoặc vì những động cơ khác (không có lợi cho Việt Nam). Quy định rõ như vậy cũng làm giảm khả năng vận động hành lang của một số doanh nghiệp, nhà đầu tư nhằm được chọn làm nhà đầu tư chiến lược.
Bù lại, Nghị định 126 cũng “thoáng” hơn khi quy định nhà đầu tư không được chuyển nhượng số cổ phần được mua trong thời hạn 3 năm (so với 5 năm theo quy định cũ). Điều này là đỡ trói buộc hơn cho nhà đầu tư, tăng thêm phần hấp dẫn của việc đầu tư vào DNNN.
Ngoài ra, nghị định này cũng quy định việc tổ chức bán cổ phần lần đầu cho nhà đầu tư chiến lược chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc danh mục Nhà nước tiếp tục nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần khi cổ phần hóa, thay vì là mọi DNNN khi cổ phần hóa như trước đây. Tác dụng của sự thu hẹp này là đẩy nhanh việc cổ phần hóa ở những DNNN mà Nhà nước không cần chi phối, vốn vẫn thường bị vướng mắc ở chuyện tìm và duyệt nhà đầu tư chiến lược như hiện nay.
Liên quan đến số lượng nhà đầu tư chiến lược, quy định mới không giới hạn số nhà đầu tư chiến lược như trong quy định cũ (tối đa là 3). Có lẽ sự sửa đổi này xuất phát từ thực tế có nhiều nhà đầu tư chiến lược nhưng số cổ phần họ mua không ở mức đủ lớn nên nếu hạn chế số lượng tối đa nhà đầu tư chiến lược thì việc cổ phần hóa qua nhà đầu tư chiến lược càng khó khăn (một cách không cần thiết). Ngược lại, càng có nhiều nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần (nhiều hơn số lượng muốn bán) thì giá bán cổ phần càng có thêm hỗ trợ do họ phải cạnh tranh, đấu giá với nhau.
Thứ tư, về giá bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược, điểm khác biệt trong quy định mới là kết quả của cuộc đấu giá công khai ra công chúng thường được lấy làm giá khởi điểm hoặc giá bán cho nhà đầu tư chiến lược, và việc đấu giá hay quyết định giá bán cho nhà đầu tư chiến lược chỉ xảy ra sau khi đã có kết quả đấu giá công khai ra công chúng. Theo quy định cũ trước đây, vẫn có trường hợp bán cho nhà đầu tư chiến lược theo giá thỏa thuận, hoặc đấu giá giữa các nhà đầu tư diễn ra trước khi đấu giá công khai ra công chúng, tuy giá thỏa thuận hoặc giá đấu thành công này được quy định không thấp hơn giá khởi điểm được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Như vậy, giá bán cho nhà đầu tư chiến lược theo quy định mới sẽ công khai, minh bạch hơn, không “tù mù” diễn ra sau cánh gà chỉ một số ít người trong cuộc mới biết, và không mang tính chủ quan như kiểu giá khởi điểm do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt như trước đây.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).