Monday, 7 October 2019

Cần định vị lại sứ mệnh của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước (Bài đăng trên TBKTSG, 7/10/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/294831/can-dinh-vi-lai-su-menh-cua-uy-ban-quan-ly-von-nha-nuoc.html


TBKTSG số ra tuần trước có bài “Định vị lại sứ mệnh của doanh nghiệp nhà nước”, trong đó kiến nghị doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chỉ nên có sứ mệnh là theo đuổi lợi nhuận và có quyền tự chủ trong việc này trong khuôn khổ pháp luật như đối với các doanh nghiệp tư nhân khác. 

Hiện tại, các DNNN được quản lý bởi Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) và/hoặc trực tiếp bởi Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp (Ủy ban) – là tổ chức có thể coi như công ty mẹ của SCIC.

Vẫn là mô hình bất cập

Điều không ổn với mô hình quản lý của SCIC trước đây và Ủy ban hiện nay là nhân sự vẫn chỉ là các công chức ngồi bàn giấy, rất ít hoặc không am tường về lĩnh vực hoạt động của DNNN mà họ quản lý; không hoặc rất ít kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp lớn; quyền tự chủ trong quản lý, điều hành doanh nghiệp vẫn bị hạn chế, vẫn phải xin phép, tham khảo ý kiến, trông chờ sự “chủ động phối hợp” của một ai đó, cơ quan nào đó (dù Ủy ban đã được gắn cái nhãn không chính thức là “siêu Ủy ban”).

Hãy hình dung như trước đây, các DNNN được quản lý bởi bộ chủ quản, theo ngành dọc, với cả một ban bệ đồ sộ nhiều tầng lớp, nhưng việc quản lý vẫn... chẳng ra sao! Nay gom tất cả các DNNN về một mối dưới SCIC và/hoặc Ủy ban với khoảng một vài trăm nhân sự gom nhặt từ các cơ quan quản lý với đủ loại trình độ nghề nghiệp và kinh nghiệm (background) thì khó lòng mà hy vọng sự vụ quản lý DNNN sẽ hanh thông hơn, trừ khi lại phải đẻ ra một bộ máy mới trong lòng Ủy ban gồm đầy đủ các ban bệ quản lý DNNN theo ngành dọc như trước đây để đảm bảo việc quản lý DNNN không là quá sức, quá tải với Ủy ban. Nhưng nếu làm như vậy thì tính hữu hiệu, hiệu quả của mô hình Ủy ban sẽ là lại là một câu hỏi lớn.

Điểm nghẽn trên là một trong những nguyên nhân chính mà SCIC trước đây và nay là Ủy ban – dù đã chính thức được thành lập gần 2 năm nay – vẫn “chính thức” không để lại dấu ấn gì, thành công nào, và cũng chưa chứng tỏ được đã có sự chuyển biến hay chiều hướng tích cực cho các DNNN mà họ quản lý. Minh chứng sinh động nhãn tiền nhất là vai trò mờ nhạt của Ủy ban ở các doanh nghiệp thua lỗ của Bộ Công thương bàn giao về Ủy ban.       

Định vị lại sứ mệnh

Với mô hình Ủy ban hay bất cứ mô hình đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tương tự, sự quá sức, quá tải về nhiệm vụ, chức năng, và năng lực quản lý buộc phải đi đến một giải pháp không thể khác mà có thể nói nôm na là “không làm được thì thuê”!

Theo cách này, Ủy ban sẽ đóng vai trò như một cổ đông (cổ đông lớn hoặc cổ đông duy nhất) đối với các DNNN. Là cổ đông, không nhất thiết Ủy ban cần phải am tường / “ôm” được nhiều thứ, nhiều lĩnh vực, hoặc phải tham gia vào mọi việc ở DNNN. Thay vào đó, cổ đông gián tiếp/trực tiếp thue người quản lý, điều hành doanh nghiệp. Khi đó, mối quan tâm duy nhất của cổ đông - Ủy ban – thông thường chỉ là làm sao cổ phần của mình trong doanh nghiệp liên tục gia tăng về giá trị. Nếu điều này không được thực hiện thì cổ đông cần thực hiện quyền hạn của mình để đảm bảo ban lãnh đạo của doanh nghiệp phải có những thay đổi cần thiết để hiện thực hóa mục tiêu này, hoặc không phải bị thay thế.

Nếu không thể cải thiện, thì cổ đông cần tính đến chuyện rút vốn khỏi doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp chỉ có duy nhất một cổ đông là Ủy ban thì sự rút vốn này đồng nghĩa với việc DNNN bị giải thể, sang nhượng (cổ phần hóa). Ở góc độ này, Ủy ban có vai trò, sứ mệnh tương tự như Temasek của Singapore.

Với “KPI” (chỉ tiêu đánh giá năng lực) này, DNNN nào không hiệu quả thì sẽ bị giải thể, tái cơ cấu, ban lãnh đạo DNNN đó phải ra đi, và sẽ đơn giản là như vậy. Đổi lại, DNNN sẽ được toàn quyền chủ động trong kinh doanh với sự can thiệp tối thiểu từ Ủy ban, chủ yếu mang tính hình thức như phê duyệt kế hoạch sản xuất, kinh doanh (hàng năm) như trong quan hệ giữa một doanh nghiệp cổ phần thông thường với các cổ đông của nó.

Nếu muốn kiểm tra giám sát để đảm bảo quyền lợi của cổ đông thì Ủy ban có thể thuê các tổ chức thứ ba, độc lập đảm trách viêc này mà không nhất thiết thiết phải thành lập riêng một tổ chức hữu cơ mà chất lượng và hiệu quả không có gì đảm bảo cũng bởi xuất phát từ phạm vi quản lý quá rộng của Ủy ban.

Tất nhiên là với sứ mệnh hoạt động được đơn giản hóa nói trên của Ủy ban thì hàng loạt (có thể nói là quá nhiều) trách nhiệm, nhiệm vụ hiện nay được giao cho Ủy ban (1) sẽ (nên) được rút gọn lại quanh mấy chữ “hiệu quả gia tăng vốn nhà nước” cũng như đảm bảo cho Ủy ban sự tự chủ, độc lập cần thiết với mọi cơ quan quản lý nhà nước khác trong việc thực hiện sứ mệnh này. Với thước đo này, bản thân Ủy ban và người lãnh đạo cũng sẽ bị chịu áp lực phải bị thay thế nếu không hoàn thành nhiệm vụ.

Nếu theo đúng phương châm hoạt động trên, thực ra không cần đến sự thành lập và tồn tại của Ủy ban, mà chỉ cần bàn giao các DNNN về SCIC và sửa đổi mô hình của SCIC để nó hoạt động tương tự như Temasek là đầy đủ, trọn vẹn và hợp lý trên mọi lẽ.
(1) http://cmsc.gov.vn/chuc-nang-nhiem-vu

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).