Friday, 4 April 2025

 Bình luận về cuộc gọi của đồng chí Tô Lâm với đồng chí Trump

Có một số đồng chí hỏi tớ về cuộc điện đàm của đồng chí Tô Lâm với đồng chí Trump. Nhìn chung, tớ cũng thấy đây là một phản ứng khẩn, cần thiết, rõ ràng là hơn so với không làm gì hoặc thụ động chờ đợi cấp dưới của mình sang Mỹ thương thuyết. Nhưng có điều là tớ không lạc quan và thở phào như đa phần dư luận.

Nhiều người không để ý rằng đề xuất đưa thuế nhập khẩu về 0 với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ mới chỉ là đề xuất đơn phương của Việt Nam. Mỹ có thể ghi nhận, chấp thuận đề xuất này, nhưng điều này không có nghĩa là Mỹ sẵn lòng, sẵn sàng, sẽ, hoặc có nghĩa vụ hạ thuế nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam xuống mức tương ứng.

Lý do? Đơn giản là chẳng có lý do thỏa đáng để Mỹ sẵn lòng làm vậy. Đây có thể coi như một cuộc thương lượng, mặc cả thương mại song phương, với đồng chí Trump khởi xướng và đồng chí Tô Lâm đáp lại trong bước khởi đầu. Vì là cuộc mặc cả, hai bên đều phải có những quân bài mạnh, đại diện cho việc ai cần ai hơn. Nhưng rõ ràng là trong cuộc chơi này thì Việt Nam cần Mỹ hơn, chứ không phải ngược lại. Để chứng minh ư? Hãy trả lời: Ai xuống nước trước?

Bởi vậy, phản ứng thận trọng cần có trước tiên khi đọc đến những tin tức loại này là hãy lạc quan có chừng mực, hãy hy vọng tối đa rằng Mỹ có thể nương tay, hạ thuế nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam xuống đến, ví dụ, một nửa (23%) là đã quá nhiều, quá tốt, với điều kiện là đồng chí Trump... yêu mến Việt Nam thật sự như ông ta nói, đã nhìn ra rõ tấm chân tình của các đồng chí Việt Nam!

Đó là mới nói đến cơ sở thuế quan có đi có lại, tức Việt Nam tự nguyện hạ thuế xuống 0% và Mỹ đáp lại tấm lòng chân thành của Việt Nam bằng cách hạ thuế của mình xuống một chừng mực nào đó. Nhưng mọi người cũng cần lưu ý rằng mức thuế cắt cổ 46% của Mỹ không chỉ là để trả đũa cho việc Việt Nam đánh thuế cao vào hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ, mà còn bởi những (cáo buộc về) rào cản thương mại và thao túng tiền tệ, và/hoặc cả về việc đã biến Việt Nam thành cơ sở trung chuyển hàng hóa Trung Quốc sang Mỹ.

Việc Mỹ hạ thuế cho Việt Nam chắc sẽ còn phụ thuộc vào việc Việt Nam sẽ cam kết khắc phục các cáo buộc này như thế nào, có thành tâm và chủ động hay không. Mà điều này thì rõ ràng sẽ không thể xảy ra một sớm một chiều. Do đó, tớ dự đoán rằng, sớm nhất là ngày 9/4 này, nếu có nhã ý, Mỹ sẽ chỉ hạ thuế mang tính biểu tượng, cùng với đó là các cam kết, ràng buộc từ phía Việt Nam, rất có thể là từng bước, từng giai đoạn tương ứng với những bước đi cụ thể của mỗi bên. Tớ mà là đồng chí Trump thì tớ rõ ràng không muốn rơi vào tình trạng đồng ý hạ thuế để rồi không lâu sau đó phải tăng trở lại bởi đối phương chưa thấy có chuyển biến thực sự nào sau một thời gian hạn định.

Ngoài ra, còn nhiều vấn đề liên quan đến chuyện đánh thuế và phản ứng cần thiết của Việt Nam mà tớ thấy có thể bàn luận được, khi nào có hứng thì tớ sẽ nói dần dần, hoặc các đồng chí bạn đọc chọn lọc nêu ra. Nhưng xin cảnh báo dư luận một lần nữa, từ lần tớ cảnh báo trước cách đây đến cả chục năm khi đang dấy lên hiệp định TPP, rằng các đồng chí đừng quá tự tin cho rằng Mỹ cần Việt Nam (hơn là ngược lại) để rồi dẫn đến những phản ứng sai lầm, những cú sốc, những nỗi thất vọng đến căm thù. (Các đồng chí có thể tìm lại những bài viết của tớ về TPP, đặc biệt là các bài viết liên quan đến các cuộc phỏng vấn doanh nghiệp Mỹ để biết thêm chuyện này).



No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).