Friday 24 February 2012

Cải thiện thanh khoản ngân hàng cần giải pháp khác? (Bai dang tren Dai bieu Nhan dan)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=238912

07:45 | 25/02/2012

Căng thẳng thanh khoản đang được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) coi là trở lực còn lại để hạ lãi suất. Để giải quyết khó khăn thanh khoản, NHNN tập trung vào biện pháp tái cơ cấu hệ thống ngân hàng (sáp nhập và hợp nhất những ngân hàng nhỏ, yếu kém) và biện pháp phân loại ngân hàng theo nhóm (4 nhóm) và giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng tương ứng cho từng nhóm (cụ thể là 17%/năm cho nhóm 1, 15%/năm cho nhóm 2, 8%/năm cho nhóm 3 và 0% cho nhóm 4 – nhóm yếu kém nhất).

Hai biện pháp trên của NHNN đã được đa phần dư luận đồng tình, ủng hộ, vì nghĩ rằng chúng có thể giải quyết tận gốc rễ của vấn đề căng thẳng thanh khoản – do các ngân hàng nhỏ và yếu kém cạnh tranh huy động tiền gửi bằng cách tăng lãi suất huy động, kéo theo cả hệ thống ngân hàng vào cuộc canh tranh tăng lãi suất huy động, từ đó dẫn đến lãi suất cho vay cũng phải cao, quá sức chịu đựng của các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn một chút ta sẽ thấy các giải pháp trên không nhất thiết là câu trả lời cho vấn đề căng thẳng thanh khoản, ít nhất là trong ngắn hạn.

Về biện pháp thứ nhất, vì bản chất của nó chỉ là sáp nhập một cách cơ học các ngân hàng yếu kém với nhau (hiện đã có 3 ngân hàng dạng này được sáp nhập), nên kết quả của nó chỉ có thể là sự giảm đi về số lượng ngân hàng nói chung và cũng như số lượng ngân hàng yếu kém nói riêng. Điều đáng lưu ý là sự giảm đi về số lượng ngân hàng (yếu kém) này không nhất thiết làm cải thiện thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.

Thanh khoản trong hệ thống tùy thuộc vào cung và cầu tín dụng. Cung tín dụng phụ thuộc một phần vào nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, và phần lớn hơn vào nguồn cung cuối cùng là cung tiền của NHNN theo các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nó. Còn cầu tín dụng phụ thuộc vào tình hình sức khỏe của nền kinh tế và trực tiếp là nhu cầu vay vốn của dân cư, doanh nghiệp, và Chính phủ, là những yếu tố cũng đồng thời lại phụ thuộc vào, hoặc bị chi phối phần lớn bởi cung tiền của NHNN.

Ví dụ, khi nền kinh tế tăng trưởng trì trệ, NHNN có thể kích cầu tín dụng bằng cách tăng cung tiền nhờ đó kích thích tiêu dùng và đầu tư. Thanh khoản sẽ tràn ngập nền kinh tế đi đôi với lãi suất cho vay thương mại giảm đi. Quá trình này tiếp diễn cho đến khi cầu tín dụng tăng lên, dẫn đến lãi suất cho vay thương mại tăng trở lại. Ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng quá nóng với cầu tín dụng cho tiêu dùng và đầu tư tăng quá mạnh, NHNN phải thắt chặt chính sách tiền tệ. Tiền bơm ra sẽ ít đi trong khi nhu cầu tín dụng vẫn tăng và ở mức cao sẽ dẫn đến cạn kiệt thanh khoản, làm tăng lãi suất cho vay thương mại, cho đến thời điểm mà ở đó sẽ diễn ra quá trình nới lỏng cung tiền của NHNN như trên.

Trong bối cảnh NHNN không có điều chỉnh lớn gì đối với cung tiền của mình thì thanh khoản sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vốn nhàn rỗi hiện có trong nền kinh tế và nhu cầu vay tín dụng của cả nền kinh tế. Lãi suất cho vay thương mại trong trường hợp này sẽ do thị trường quyết định chứ không phải là NHNN nữa. Giả sử nếu NHNN muốn can thiệp trong bối cảnh không muốn dùng chính sách tiền tệ của mình thì NHNN buộc phải dùng đến các công cụ hành chính như trần lãi suất, hạn mức tăng trưởng tín dụng v.v... Vì là công cụ hành chính nên tình hình thanh khoản và lãi suất sẽ bị bóp méo. Ví dụ, khi cầu tín dụng cao sẽ dẫn đến lãi suất tăng cao. Nếu NHNN lúc đó áp trần lãi suất tiền gửi, người gửi tiền sẽ không mặn mà gửi tiền, dẫn đến thanh khoản căng thẳng.

Quay trở lại với biện pháp sáp nhập các ngân hàng yếu kém trên của NHNN. Tuy số lượng ngân hàng (yếu kém) đã giảm đi, nhưng cung và cầu tín dụng của cả nền kinh tế thì không nhất thiết tăng/giảm theo tương ứng. Ngân hàng chỉ là trung gian chuyển tải vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, nơi ít cần/không cần đến nơi cần/cần nhiều hơn.

Để dễ hình dung, giả sử hệ thống ngân hàng hiện tại có 100 ngân hàng, với tổng lượng khách hàng hiện tại của toàn hệ thống ngân hàng là X người, có tổng nhu cầu tín dụng là Y đồng, và cung tín dụng từ người gửi tiền và từ NHNN là Z đồng tại lãi suất huy động hiện tại 14%/năm. Với giả thiết hệ thống ngân hàng đang gặp khó khăn về thanh khoản, và giả thiết thêm NHNN không (có ý định) tăng cung tiền tại thời điểm này, có thể suy ra Z < Y (cầu tín dụng không được thỏa mãn đầy đủ bởi tiền gửi huy động và cung tiền từ NHNN). Sau khi sáp nhập các ngân hàng yếu kém với nhau, tổng số ngân hàng còn lại là 80, nhưng tổng số khách hàng và tổng nhu cầu tín dụng vẫn là X và Y, vì khách hàng sẽ được chuyển giao từ ngân hàng bị sáp nhập sang ngân hàng mới/khác. Như vậy, tình hình căng thẳng thanh khoản sẽ chẳng có gì thay đổi sau khi sáp nhập ngân hàng yếu kém, khi mà cầu tín dụng vẫn lớn hơn cung tín dụng từ tiền gửi dân cư và từ NHNN.

Đối với biện pháp phân loại nhóm ngân hàng và giới hạn tăng trưởng tín dụng theo nhóm, kết quả sẽ tương tự. Số ngân hàng được phép tăng trưởng tín dụng sẽ ít hơn (ngân hàng thuộc nhóm 4 không được tăng trưởng tín dụng). Nhưng điều này không đồng nghĩa với cầu tín dụng của chúng ít đi. Bản thân các ngân hàng này vẫn phải tiếp tục huy động tiền gửi để đảm bảo nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu thanh toán các khoản tiền gửi đến hạn rút ra và các nghĩa vụ thanh toán khác, trong khi một phần đáng kể vốn đã huy động được trước đây bị chôn vào các khoản nợ xấu ít/không có khả năng thu hồi (vì thế mới bị phân loại vào nhóm 4).

Ngoài ra, các ngân hàng thuộc nhóm này thường là những ngân hàng nhỏ, chiếm thị phần không đáng kể nên sự cắt giảm nhu cầu huy động tiền gửi từ chúng (nếu có) sẽ không có mấy ảnh hưởng lên nhu cầu vốn huy động của toàn hệ thống.

Quan trọng hơn, trong bối cảnh các ngân hàng nhỏ và yếu kém này không được phép tăng trưởng tín dụng, và giả sử vì thế sẽ không đáp ứng được nhu cầu về vay vốn của một bộ phận khách hàng hiện hữu của chúng, các khách hàng này sẽ không có lý do gì mà không chuyển sang vay ở các ngân hàng khác, dẫn đến tổng cầu tín dụng toàn hệ thống không thay đổi. Nếu khi đó tổng cung tín dụng từ tiền gửi dân cư và NHNN vẫn ở mức như cũ thì thanh khoản vẫn căng thẳng như cũ, không có gì cải thiện hơn.

Sự tồn tại và duy trì của trần lãi suất huy động trong trường hợp này sẽ càng làm tăng thêm tình trạng căng thẳng thanh khoản vì nguồn tiền gửi huy động sẽ tiếp tục bị hạn chế, không được khuyến khích (đặt ra trần lãi suất huy động, về bản chất chính là áp đặt một lãi suất mang tính cưỡng ép thiệt thòi cho người gửi tiền. Nếu không phải vậy thì chẳng cần phải đặt ra trần lãi suất làm gì).

Như vậy có thể thấy 2 biện pháp trên đang thực thi của NHNN không nhất thiết có tác dụng tích cực gì đến tình hình căng thẳng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng hiện nay, ít nhất trong ngắn hạn. Tất nhiên, biện pháp thứ 2 có thể mang đến một số kết quả tích cực như làm tăng thêm tính lành mạnh, an toàn của hệ thống vì từng ngân hàng phải nỗ lực để được phân vào nhóm tốt hơn. Nhưng từ kết quả đó cho đến lúc cải thiện được thanh khoản là một chặng đường dài, khó mà nhìn thấy được trong thời gian một, hai quý tới.

Nói cách khác, để giải quyết căn bản tình trạng căng thẳng thanh khoản nhằm gấp rút hạ lãi suất ngay trong quý này hoặc quý sau, NHNN hoặc là buộc phải bỏ trần lãi suất huy động, hoặc là phải tăng cung tiền, hoặc là phối hợp cả 2 giải pháp này. Nhưng vì giải pháp bỏ trần lãi suất huy động sẽ có thể làm tăng lãi suất cho vay tức thời nên chắc sẽ vấp phải sự phản đối mạnh mẽ hơn nữa từ dư luận.

Vậy chỉ còn giải pháp tăng cung tiền, với cái giá phải trả là áp lực lạm phát sẽ tăng. Hiện nay, dường như xu hướng nới lỏng cung tiền đang dần rõ nét. Nếu tiếp tục như vậy trong một vài tháng tới thì lãi suất sẽ hạ xuống đi kèm với lạm phát sẽ khó dừng ở mức dưới 1 con số như kỳ vọng của Chính phủ (ví dụ, hãng xếp hạng tín dụng Moody’s dự đoán lạm phát của Việt Nam năm nay là 12,5%). Tóm lại, câu hỏi đặt ra cho cả xã hội và NHNN vẫn là muốn đánh đổi cái nào lấy cái nào?

1 comment:

  1. All in all, tương đối nhất trí với quan điểm của anh, có 1 vấn đề này: biện pháp sáp nhập, xử lý các NHTM cổ phần nhỏ xuất phát từ mục tiêu khó khăn và phức tạp nhưng phải làm được và làm tốt là xóa bỏ sở hữu chéo giữa các NHTM, 1 số DN lớn và 1 số nhân vật có máu mặt trong giới. Hiện tại, số lượng khác hàng lớn và người có liên quan (bao gồm các loại dây nhợ sở hữu chéo) thường chiếm chắc phải quá 3/4 tổng dư nợ toàn hệ thống. Cộng thêm với việc sở hữu chéo nhau sẽ làm chartered capital của các NHTM được đẩy lên cao, thực chất là vốn "ảo". Em ko có thời gian nên nói qua thế. A có thêm cao kiến gì thì xin chỉ giáo
    T.L

    ReplyDelete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).