Sunday 30 May 2021

Tăng vòng quay tiền để giảm cung tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế? (Bài đăng trên Đầu tư, 30/5/2021)

https://baodautu.vn/tang-vong-quay-tien-de-giam-cung-tien-va-thuc-day-tang-truong-kinh-te-d143860.html

(Bài phang tiếp đồng chí Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa)

Gần đây nổi lên vấn đề về cung tiền tăng nhanh so với tăng trưởng GDP tạo rủi ro bong bóng bất động sản và chứng khoán. Nhưng nếu giảm cung tiền thì sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP. Để giải bài toán  khó này, đã có một khuyến nghị rất đáng chú ý, đó là phải tìm cách tăng vận tốc (hay vòng quay) tiền để thúc đẩy tăng trưởng GDP mà không phải tăng cung tiền từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN).

Tăng vận tốc tiền để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Vận tốc tiền (velocity of money, V), là thước đo tốc độ trao tay của tiền trong nền kinh tế. Nói một cách đơn giản, đó là tốc độ mà người dân và doanh nghiệp tiêu tiền.   

Một nghiên cứu cho thấy V ở Việt Nam đã liên tục giảm xuống mức thấp kể từ năm 2011, kể cả năm 2020, cho dù có nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người dân được thực thi (1). V giảm “cho thấy lượng tiền khổng lồ dường như đã bị mắc kẹt trong hệ tài chính công với tâm lý e dè trong tiêu dùng của người dân, đã làm tăng trưởng GDP không như mức kỳ vọng”. Do đó, với lập luận rằng V cao là dấu hiệu của nền kinh tế lành mạnh (bởi V cao chứng tỏ giao dịch hàng hóa nhanh), nghiên cứu này khuyến nghị cần gia tăng V để kích thích tăng trưởng.

Phát hiện và khuyến nghị nói trên xuất phát từ việc áp dụng công thức: Vận tốc tiền (V) x Cung tiền (M2) = Giá cả (P) x Sản lượng hàng hóa, dịch vụ (Q). Theo đó, khi M2 tăng mạnh như vừa qua trong khi P và Q tạo thêm ra trong nền kinh tế không tăng mạnh tương ứng thì đương nhiên là vận tốc tiền V sẽ phải giảm đi.

Tuy nhiên, vấn đề mà nghiên cứu đặt ra là phải tăng Q. Nhưng cũng từ công thức trên suy ra: Q = VxM2/P. Như vậy, ngoài V thì Q sẽ còn phụ thuộc vào cả M2 và nhất là P, là đại lượng mà NHNN không hoàn toàn kiểm soát được. Nói cách khác, không thể chỉ dựa vào tăng vận tốc tiền V để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.       

Ngoài ra, cần lưu ý rằng V cao nhiều khi là dấu hiệu của nền kinh tế tăng trưởng nóng và/hoặc đang có lạm phát cao, chứ không phải là dấu hiệu của nền kinh tế lành mạnh. Chắc nhiều người vẫn nhớ câu chuyện nước Đức thời lạm phát phi mã cách đây một trăm năm, khi công nhân lĩnh lương xong là lập tức chạy ngay ra chợ để mua hàng hóa (tức V rất cao) bởi giá cả tăng chóng mặt từng giờ. 

Tăng vận tốc tiền để giảm cung tiền

Một nghiên cứu khác cũng cho thấy V đang ở mức rất thấp “so với thời điểm tích cực”. (2) Có lẽ nghiên cứu này cũng xuất phát từ công thức nói trên nên kết luận rằng “bài toán và mục tiêu lớn của NHNN hiện nay vẫn sẽ phải thúc đẩy vận tốc của tiền. Khi vận tốc tiền gia tăng thì cung tiền sẽ giảm".

Nghiên cứu này lập luận rằng cung tiền M2 tăng nhanh là nguyên nhân đẩy dư nợ tín dụng/GDP lên mức cao, do đó khi rút bớt tiền thì sẽ gây rủi ro lớn cho nền kinh tế. Nhưng do không thể giảm mạnh cung tiền nên cần tăng vận tốc tiền V lên để đảm bảo lượng tiền có đủ cho tăng trưởng kinh tế.

Theo cách trên – tăng V, giảm M2 – thì có thể làm cho M2xV không thay đổi, và do đó PxQ cũng không thay đổi (vì M2xV=PxQ). Tuy nhiên, chỉ thế thôi thì chưa đủ để biết được chiều hướng biến động của sản lượng Q bởi hoàn toàn có khả năng Q thì giảm đi và giá cả P lại tăng lên để đảm bảo PxQ không đổi.

Vận tốc tiền giảm nên không cần lo M2 tăng

Một phân tích khác cũng dựa vào thực tế là V đã giảm đi để đánh giá tác động của M2 lên nền kinh tế.(3) Phân tích này có thể tóm tắt như sau: V đã giảm đáng kể, và đây là đặc trưng cơ bản của khủng hoảng, dẫn đến suy thoái hay đình trệ kinh tế. Do đó, dù M2 tăng mạnh thì cũng không thể có chuyện tiền tràn ngập thị trường.

Có thể suy đoán rằng ý của bài phân tích này là, do M2xV sẽ không tăng lên nên tiền sẽ không trôi nổi, thừa thãi trong nền kinh tế và không gây ra bong bóng tài sản. Nói cách khác, không cần phải lo M2 tăng mạnh khi mà V lại giảm đi.

Cần lưu ý rằng cho dù M2xV không tăng, nhưng đó không phải là lượng tiền do NHNN bơm ra và đang lưu thông trong nền kinh tế. Nó là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ tạo ra trong một thời kỳ (PxQ), theo công thức M2xV=PxQ. Do đó, dù V giảm đi và M2xV không thay đổi (tăng) thì từ đó cũng không thể kết luận rằng tiền không tràn ngập, thừa thãi trong nền kinh tế.       

-------------

(1) https://saigondautu.com.vn/kinh-te/kich-thich-kinh-te-gia-tang-van-toc-dong-tien-90400.html

(2) https://viettimes.vn/ty-le-du-no-tin-dung-gdp-cao-ngan-hang-nha-nuoc-se-lam-gi-post145164.html

(3) https://baotintuc.vn/kinh-te/ts-le-xuan-nghia-khong-co-chuyen-tien-tran-ngap-thi-truong-gay-bong-bong-tai-san-20210515095744644.htm


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).