Thị trường đã nhiều phen chứng kiến một số mặt hàng
nào đó lên cơn sốt giá. Những mặt hàng này bao gồm đủ loại, từ những thứ thiết
yếu như mớ rau, cân thịt lợn, hộp sữa cái đinh, lá tôn lợp đến những thứ cao cấp
và giá trị hơn nhiều như vàng, ngoại tệ.
Một trong những phản ứng chính sách thường
thấy là cơ quan chủ quả (thuộc Bộ Tài chính, và/hoặc các bộ quản lý ngành chức
năng), nói một cách nôm na, dùng mệnh lệnh hành chính cấm người cung những mặt
hàng này trên thị trường tăng giá, tại thời điểm hiện tại. Những biện pháp quản
lý giá cụ thể trong những trường hợp này là buộc người bán theo giá niêm yết,
giá quy định; đưa (một số) những mặt hàng này vào diện hàng hóa được bình ổn về
giá; thanh tra, điều tra, phát hiện và xử phạt những ai vi phạm các quy định về
giá cả đã đăng ký và/hoặc trong diện được bình ổn; khi muốn tăng giá phải giải
trình với cơ quan chủ quản và không được tăng liên tục trong vòng một thời gian
nào đó v.v...
Vụ việc lùm xùm mới đây nhất là chuyện giá sữa trẻ em dưới
6 tuổi liên tục tăng trong thời gian ngắn (mà không vì lý do gì!?). Nguyên nhân
cuối cùng được cho té ra là do các mặt hàng sữa trước đây đã bị thay tên đổi họ
thành sản phẩm dinh dưỡng theo quy định của Bộ Y tế, và, do đó, “thoát” bị nằm
trong danh mục hàng hóa phải bình ổn giá do Bộ Tài chính quản lý.
Và như một giải pháp xử lý để giá sữa trẻ em không tăng nữa,
người ta đã nhanh chóng đưa sữa trẻ em vào lại danh mục hàng hóa phải bình ổn
giá của Bộ Tài chính. Và rồi dư luận thở phào một cái, với những tờ báo giật
tít lớn đại loại giá sữa từ này hết “cửa” tăng với hành động chính sách này!
Tìm ra nguyên nhân và xử lý vấn đề xem ra thật rõ ràng và đơn giản.
Thế nhưng, có thể nhìn thấy trước tương lai tiếp tục bất ổn
của những mặt hàng thuộc diện bình ổn giá nói chung và của sữa nói riêng. Có
không ít những mặt hàng thuộc diện bình ổn mà giá của chúng nhiều khi và ở nhiều
nơi còn cao hơn cả ngoài thị trường. Có nhiều mặt hàng bình ổn mà lượng cung
như muối bỏ bể và tiểu thương đổ xô đến để mua rồi bán lại với giá cao hơn, để
rồi rốt cuộc giá tăng vẫn cứ tăng. Có nhiều mặt hàng mà giá niêm yết một đằng,
bán một nẻo mà người mua vẫn cứ phải lẳng lặng chấp nhận và móc túi trả tiền vì
nhiều chiêu lách luật của người bán mà nếu có phát hiện thì cơ quan chủ quản chẳng
thể làm gì, và người mua thấy chỗ nào cũng vậy v.v... Trong khi đó, có nhiều mặt
hàng mà để giá của chúng được bình ổn, hàng loạt ưu đãi tài chính phải được đưa
ra để rồi phí tổn liên quan đến bình ổn trở nên phi lý và tạo động cơ cho những
hành động trục lợi của những doanh nghiệp tham gia bình ổn.
Mấu chốt của vấn đề, rất tiếc, lại rất đơn giản. Do cung
và cầu chênh lệch nhau, chính xác hơn, cung nhỏ hơn cầu. Để khắc phục quy luật
cơ bản này của thị trường, người ta phải tăng cung và/hoặc giảm cầu, và/hoặc bù
giá. Tăng cung có thể bằng cách tăng sản xuất trong nước, tăng/nới lỏng điều kiện
nhập khẩu. Giảm cầu có thể bằng cách “bóp mồm bóp miệng”, hoặc tìm loại hàng
hóa thay thế được. Bù giá là lấy ngân sách nhà nước ra để bù vào phần chênh lệch
giữa giá do thị trường quyết định và mức giá mà nhà nước thấy có thể chấp nhận
được, làm cho tất cả nhu cầu hiện tại vẫn được thỏa mãn. Cứ dựa vào những yếu tố
này sẽ thấy có nhiều vấn đề liên quan đến giá đã bị bỏ qua ở Việt Nam.
Cụ thể với mặt hàng sữa, việc tăng cung xem ra không phải
là vấn đề khi, theo một số báo cáo, có tới hơn 200 nhà nhập khẩu sữa vào Việt
Nam, chưa kể nguồn cung từ “hàng xách tay”. Sản xuất trong nước dường như không
bị chịu một cơn sốc nào, vẫn không ngừng tiếp tục tăng trưởng, khó mà tạo thành
cơn sốt giá đột ngột. Nhưng có điều, vẫn chưa thấy có phân tích nào, kể cả từ
cơ quan chức năng, chỉ ra rằng chi phí và giá nhập khẩu sữa, và nguyên vật liệu
vào Việt Nam để sản xuất sữa, có tăng lên không. Thay vào đó, một ví dụ cụ thể,
cái mà người ta vẫn hay viện dẫn ra là một cái bảng giá sữa nhập khẩu vào Việt
Nam của nhiều hãng sữa chỉ bằng một phần của giá bán hiện tại trong nước, để rồi
kết luận rằng giá sữa tăng lên ở Việt Nam là vô lý. Nhưng phân tích theo kiểu
này là vô nghĩa vì người ta không chỉ ra rằng giá nhập khẩu đó đã có thay đổi
hay không so với trước khi các hãng sữa tăng giá. Nếu quả thật đã có sự thay đổi
(tăng lên) thì đương nhiên giá sữa trong nước cũng phải thay đổi (tăng lên), bất
chấp chênh lệch giá trong nước và giá nhập khẩu là bao lần. (Chuyện chênh lệch
này lại thuộc một chủ đề khác).
Về phía cầu, cũng có một vài yếu tố bị bỏ qua. Chẳng hạn,
người ta không chịu xem xét xem trong thời gian qua đã có sự chuyển dịch về lượng
và cơ cấu của cầu về sữa làm thay đổi giá sữa hay không. Từ ngoài nhìn vào, có
thể chỉ ra ngay một yếu tố có thể đã có ảnh hưởng đến cầu về sữa ở Việt Nam. Đó
là việc mua vét sữa của dân Trung Quốc xảy ra trên phạm vi toàn cầu, từ Âu sang
Mỹ xuống Úc và New Zealand rồi lên Á do người dân Trung Quốc lo ngại với chất
lượng sữa sản xuất trong nước họ. Với nhu cầu mua vét khổng lồ này, việc tăng
giá sữa trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam, nếu có, là điều không khó hiểu và
bất ngờ. Ngược lại, việc Trung Quốc vơ vét sữa “ngoại” thế này đương nhiên cũng
đẩy giá sữa và nguyên liệu sữa nhập khẩu lên, làm giá sữa sản xuất ở Việt Nam
cũng phải tăng lên (xét về phía cung).
Về việc bù giá. Một khi cung cầu đã có biến động theo hướng
bất cân đối như vậy thì giá sẽ chịu áp lực tăng lên. Để mọi người tiêu dùng vẫn
tiếp cận được mức giá không đổi thì nhà nước phải bù giá. Nhưng ở Việt Nam hình
như cho đến nay vẫn chưa nghe thấy chuyện ngân sách đã bỏ ra từng này đồng hỗ
trợ cho các doanh nghiệp nhập khẩu sữa hoặc nhập khẩu nguyên liệu sữa để sản xuất
sữa với giá bán rẻ hơn so với không có hỗ trợ. Và cũng chưa nghe thấy chuyện
nhà nước trợ cấp mỗi hộp sữa cụ thể là từng này đồng để người mua chỉ phải bỏ
ra một số tiền không đổi so với trước cho cùng một hộp sữa. Chuyện thiếu vắng sự
hỗ trợ và bù giá thế này xem ra vẫn tiếp tục trong thời gian tới. Ở đây ta chưa
nói đến quy mô hỗ trợ cần thiết để đảm bảo mọi nhu cầu được thỏa mãn tại mức
giá hiện tại (không tăng) và những tổn hại to lớn đi kèm với việc hỗ trợ, mà vì
thế mà nhiều nước đang có trợ giá cho mặt hàng nào đó (xăng dầu, lương thực, thực
phẩm v.v...) đã và đang phải cân nhắc thu hẹp hoặc xóa bỏ tài trợ do ngân sách
của họ không thể kham nổi.
Tóm lại, việc quản lý giá hàng hóa nói chung và giá sữa
nói riêng đang có nhiều bất ổn, từ chuyện phân tích và tìm ra nguyên nhân, cách
tư duy và biện pháp xử lý, công cụ xử lý, năng lực và nguồn lực xử lý, và kể cả
việc giám sát công tác xử lý. Bởi vậy, có thể thấy trước (và thực tế cũng cho
thấy vậy) rằng giá cả các mặt hàng được bình ổn sẽ tiếp tục bất ổn và/hoặc đi
kèm với những tổn thất lớn cho ngân sách.
Bác phân tích đơn giản & cơ bản theo kinh tế vĩ mô thuần túy mà đã nói lên được thực trạng của vấn đề giá cả của nhiều mặt hàng tưởng chừng "bình" nhưng "bất ổn" về giá, trong đó có mặt hàng sữa. Nếu những người làm chính sách mà không nhìn ra vấn đề như bác đề cập ở trên và có cách tiếp cận phù hợp thì sẽ tìm ra giải pháp khác phục hiệu quả. Nhưng đáng tiếc thực tại cho dù giá cả được gọi là có kiểm soát nhưng vẫn như mớ bòng bong, và cái chính sách bình ổn giá của NN không loại trừ có lợi ích nhóm trong đó.
ReplyDeleteThanks về những chia sẻ của bác, chúc bác cuối tuần zui zẻ!
Nói gì thì nói, giá sữa ở VN có vẻ vẫn thấp hơn ở Singapore (tớ biết chuyện này vì hôm trước bố mẹ tớ sang chơi, mua sữa tiểu đường ở đây, so với giá ở VN thì thấy chênh đến hơn 100k đồng/hộp). Vì vậy, cái chuyện chênh lệch đến mấy lần giữa giá nhập và giá bán ở VN có vẻ như là điều hiển nhiên và không chỉ có ở VN.
DeleteTóm lại, hãy chuẩn bị tinh thần mà đón đợi các đợt tăng giá sữa mới!