Wednesday 20 November 2013

NH Nhà nước đã thực sự thành NH Trung ương? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài gòn, bản gốc)

http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2013/11/1078110/nh-nha-nuoc-da-thuc-su-thanh-nh-trung-uong/

Hôm trước đồng chí Nguyễn Quốc Dân làm tớ mừng hụt vì tưởng Chính phủ sợ tớ mà vội vàng ban hành quyết định về thành lập NHTW. Tớ cũng quáng gà, vào đọc mấy lời bình luận của tờ báo mà tin sái cổ. Chỉ thấy lạ là một chuyện tầy đình thế mà sao lại được tiến hành im im, không hề được đề cập đến trên báo cho đến ngày được ký.

-----------------------------------------------------------------------------
Ở nhiều nước, Ngân hàng Trung ương (NHTW) độc lập với Chính phủ nói riêng và giới chính trị nói chung. Sự độc lập này là điều cần thiết để NHTW có thể theo đuổi chính sách có tác động tích cực lên tăng trưởng và ổn định kinh tế trong dài hạn. Nếu không được độc lập với Chính phủ và giới chính trị nói chung thì NHTW dễ tạo ra những cơn trồi sụt của nền kinh tế trong ngắn hạn bắt đầu bằng chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức thông qua áp lực của giới chính trị đặc biệt trước thời điểm bầu cử nhằm “ghi điểm” với cử tri.

Ở Việt Nam, ngày 11/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 156/2013/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương của Việt Nam; thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của NHTW về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của NHNN.

Với sự ra đời của Nghị định 156, nhiều ý kiến bình luận rằng từ 26/12 tới (là ngày Nghị định 156 có hiệu lực), Việt Nam sẽ chính thức có một NHTW hoạt động độc lập, tự chủ giống như các nước trên thế giới, với nhiệm vụ quan trọng nhất là ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm cho các tổ chức tín dụng hoạt động lành mạnh trong khuôn khổ luật pháp.
Tuy nhiên, xem xét kỹ một chút thì có thể thấy NHNN vẫn chưa thể là một NHTW độc lập như ở nhiều nước trên thế giới. Để được gọi là độc lập với Chính phủ và giới chính trị nói chung, một NHTW phải thỏa mãn (ít nhất) một trong những điều kiện sau: độc lập về mặt pháp lý; độc lập về mục tiêu; độc lập về hoạt động; và độc lập về quản lý.

Về độc lập pháp lý, lưu ý rằng Nghị định 156 là một văn bản luật do Chính phủ ban hành, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN Việt Nam. Như thế, cho dù có thể NHNN đã được trao thêm nhiệm vụ và quyền hạn mới, về bản chất nó vẫn là một cơ quan trực thuộc của Chính phủ, do Chính phủ lập ra và bị chi phối hầu như trên mọi mặt.
Đối với việc độc lập về mục tiêu, Nghị định 156 không đề cập đến việc NHNN được quyền độc lập quyết định mục tiêu chính sách của mình (ví dụ, có thể là mục tiêu về lạm phát, cung tiền, và tỷ giá). Điều này có thể được minh họa rõ nét hơn ở nhiệm vụ “xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm để trình Chính phủ” mà Nghị định 156 quy định cho NHNN. Nếu chỉ dừng lại ở quyền hạn “xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm để trình Chính phủ”, rõ ràng NHNN vẫn chưa thể coi là đã có sự độc lập với Chính phủ nói riêng và giới chính trị nói chung. Việc xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm đương nhiên là việc của NHNN, với tư cách là một bộ chủ quản ngành, chứ không thể giao cho một cơ quan bộ nào khác. Bởi vậy, bản thân việc xây dựng chỉ tiêu lạm phát không phải là một điều mới mẻ, cho thấy một sự chuyển biến căn bản gì ở đây cả.

Thêm nữa, giả thiết rằng chỉ tiêu lạm phát của NHNN, tuy theo tính toán của NHNN là cần thiết để đảm bảo lạm phát thấp, lại bị Chính phủ coi là “không phù hợp” (với ai, vì cái gì đó). Lúc đó, Chính phủ hoàn toàn có thể phủ quyết chỉ tiêu lạm phát này, buộc NHNN phải trình ra một chỉ tiêu nào đó theo ý đồ của Chính phủ thì mới được chấp nhận. Nói cách khác, việc xây dựng chỉ tiêu lạm phát và việc chỉ tiêu đó được phê duyệt bởi Chính phủ là 2 chuyện có thể hoàn toàn khác nhau, và rốt cuộc, để “xuôi chèo mát mái” thì rất có thể NHNN phải nhượng bộ hoàn toàn trước yêu cầu của Chính phủ trong việc kiểm soát lạm phát.
Về độc lập trong hoạt động, thông thường NHTW có sự độc lập trong việc quyết định cách thức nào là tối ưu để đạt được các mục tiêu chính sách của mình, bao gồm loại hình công cụ chính sách và thời điểm sử dụng chúng. Về điểm này, Nghị định 156 cũng trao NHNN quyền sử dụng các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm: Tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nhưng điều này tự thân không cho biết rằng NHNN từ nay sẽ có quyền độc lập trong việc hoạch định mục tiêu (của chính sách tiền tệ quốc gia), khi, ví dụ, mục tiêu lạm phát bị Chính phủ thay đổi và buộc NHNN phải có hành động chính sách tương ứng để đạt được mục tiêu lạm phát mới.

Và cuối cùng là độc lập về quản lý, theo đó NHTW có sự độc lập trong điều hành hoạt động của mình, bao gồm bổ nhiệm nhân sự, lập ngân sách hoạt động v.v... mà không có sự can thiệp mạnh mẽ của Chính phủ. Nhưng trong trường hợp của NHNN, Nghị định 156 lại có những quy định rất rõ ràng liên quan đến công tác điều hành hoạt động của NHNN, ví dụ, bộ máy và nhân sự của NHNN.
Tóm lại, điểm qua những loại hình độc lập của NHTW thì có thể kết luận NHNN theo Nghị định 156 vẫn chỉ là một cơ quan ngang bộ trực thuộc Chính phủ và không có sự độc lập như của nhiều NHTW trên thế giới về bản chất như dư luận nhìn nhận. Sự mới mẻ có chăng là sự gia tăng thêm một số nhiệm vụ và quyền hạn cho NHNN.

2 comments:

  1. Tại Khoản 22 Điều 2 có quy định "Làm đại lý và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho KBNN" thực ra NĐ 96 cũng có nói nhưng thực hiện chưa triệt để. KB cũng có hệ thống thanh toán riêng của KB và tiền NS thì không tập trung nên trong tích tắc không thể biết được là NSNN có nhiêu tiền chính xác được. Nhưng hiện nay đã cải cách và sẽ áp dụng trong năm 2014 khi đó KBNN TW sẽ mở 1 tài khoản TSA ( Treasury Single Account) tại NHNN khi đó toàn bộ số thu trong ngày sẽ tập trung tại đây nên Chính phủ sẽ nắm được số dư hàng ngày khi thanh toán thì Ngân hàng sẽ đãm nhận thanh toán cho hệ thống KBNN, sẽ trừ từ tài khoản TSA này nên tất cả các khoản chi sẽ không lo không có số dư nữa, do khi đó số dư của TSA là rất lớn toàn bộ nguồn lực quốc gia nằm đó. Còn số ít sẽ nằm tại KB tỉnh , huyện với số hạn mức hạn chế để chi tiền mặt nếu vượt quá số đó sẽ phải chuyển về TSA.

    Tài khoản TSA này rất tiện cho công tác quản lý chính sách tài khóa và tiền tệ do sẽ nắm được nguồn của NS và nguồn do NHNN cung nên sẽ quản lý được số cung tiền để có chính sách trong điều hành việc lạm phát.

    Không biết Đ/c Ngọc có thông tin về cách thức hoạt động của TK TSA này không ? nếu có đ/c có thể nói cho anh em rỏ hơn. TSA theo mình thì đây chắc là theo thông lệ quốc tế rồi. Đây cũng là hình thức thực hành dần dần sẽ sữa Luật NSNN, Luật NHNN thì mới có việc chuyển đổi chứ qua 1 cái NĐ thì nói chuyển đổi hơi vội vàng quá, đúng là báo vnexpress.net viết bài mà không nghiên cứu nên mọi người tưởng thiệt mừng hụt ha ha

    ReplyDelete
    Replies
    1. Tớ đương nhiên là không rõ TSA có hay không, hoạt động ra sao, nên rất cám ơn thông tin của đồng chí.

      Tớ như người mù sờ voi ấy mà, thấy gì viết nấy. Ngay cả cái Nghị định trên, thực ra nó thay cho cái nghị định cũ mà tớ cũng không biết, không để ý. Đây là điều mà một đồng chí ở TBKTSG nói cho tớ khi tớ gửi bài này (họ từ chối đăng vì nói là chẳng nhẽ lại đi phang cái sai, cái lười tìm hiểu của báo chí).



      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).