Saturday 16 April 2016

Khi các bộ "đá" nhau... (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 17/4, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)

http://www.thesaigontimes.vn/144967/Cac-bo-choi-nhau-va-hanh-dong-cua-Chinh-phu.html

Không ít lần dư luận đã được chứng kiến những màn “đá” nhau giữa các Bộ chủ quản ở Việt Nam liên quan đến phân cấp và thực thi trách nhiệm của mình trong những lĩnh vực đòi hỏi phải có sự phối hợp quản lý. Điển hình của những vụ việc như vậy gần đây thường là liên quan đến hai Bộ Tài chính và Bộ Công thương trong những lĩnh vực như quản lý giá sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi, và việc xuất khẩu than, hay việc quản lý thuế nhập khẩu xăng dầu.
Điều đáng nói là chưa cần biết ai đúng hay sai nhưng thường thì những vụ đá nhau này luôn luôn gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng trong nước, chứ hầu như chẳng có khi nào lại xảy ra chuyện ngược đời là các Bộ đá nhau và người tiêu dùng được hưởng lợi!
Trong vụ việc về quản lý giá sữa trẻ em dưới 6 tuổi, mặc dù đã có đầy đủ ban bệ, phân công trách nhiệm, và đầy đủ công cụ thi hành pháp lý vậy mà hai Bộ Tài chính và Công thương (và cả Bộ Y tế) vẫn để cho giá sữa bột dành cho trẻ em tăng đều đều, trong khi, theo một số bài báo thống kê cho biết, giá sữa bột dành cho trẻ em ở một số nước trong khu vực hầu như không biến động đáng kể. Tương tự như vậy, cũng vẫn đầy đủ ban bệ, bộ máy liên ngành với những là thông tư với hướng dẫn phối hợp của Bộ Tài chính và Công thương vậy mà trong lĩnh vực xăng dầu, người tiêu dùng vẫn phải móc túi trả tiền nhiều hơn cho xăng dầu do những lỗ hổng trong thuế nhập khẩu xăng dầu làm đội giá bán lẻ xăng dầu trong nước. Còn trong lĩnh vực than, sự bất nhất trong quản lý xuất khẩu than giữa Bộ Tài chính và Công thương làm cho không những các doanh nghiệp và người tiêu dùng năng lượng đang phải đối mặt với thực tế nhập khẩu than thay vì mua từ trong nước với giá được nhà nước quản lý (thấp hơn giá xuất khẩu), mà còn dẫn đến tình trạng môi trường đang bị ảnh hưởng lớn bởi than tốt, chất lượng cao thì được xuất đi, đồng thời giữ lại hoặc nhập khẩu than kém hơn, chất lượng thấp hơn, gây ô nhiễm môi trường.
Tại sao lại có tình trạng đá nhau này, và cần làm gì để không còn tình trạng này xảy ra nữa?
Theo dõi nội dung chỉ trích và “phản pháo” giữa các Bộ với nhau, có thể thấy các quan chức liên đới của các Bộ đã không… thuộc luật! Lúc thì họ “quên” rằng đã có những thông tư, hướng dẫn do chính Bộ mình, Bộ khác, hoặc Chính phủ đã ban hành, lúc thì họ “chưa hiểu đúng” những văn bản liên đới do các Bộ hoặc Chính phủ đã ban hành. Nhưng như vậy thì kể cũng lạ. Vì công việc thường ngày của các quan chức này là đọc, nghiên cứu và ra văn bản, quyết định, tờ trình… để (phổi hợp với nhau) quản lý các lĩnh vực chuyên ngành của mình. Vậy mà họ vẫn cứ “quên” và “chưa hiểu đúng” nên buộc người ta phải đi đến kết luận rằng họ hoặc có trình độ nhận thức pháp luật quá kém (là khả năng ít xảy ra hơn), hoặc đã quá chểnh mảng và vô trách nhiệm với vai trò và công việc của mình.
Vậy điều gì gây ra sự chểnh mảng, vô trách nhiệm này? Điều này có liên quan đến sự phối hợp giữa các Bộ trong việc quản lý một ngành nghề hay lĩnh vực cụ thể nào đó. Không thể phủ nhận rằng chuyện đá nhau và hậu quả thì người tiêu dùng phải gánh chịu như trên sẽ khó xảy ra hơn nếu có cơ chế quy trách nhiệm rõ ràng khi xảy ra hậu quả thì Bộ nào phải chịu trách nhiệm. Nhưng trong cơ chế phối hợp liên ngành như hiện tại, những quy định hiện tại kiểu như “Bộ X chủ trì, phối hợp với Bộ Y” nghe thì tưởng là chặt chẽ nhưng thực ra lại là lỗ hổng dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm, ỷ lại vào nhau hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau theo kiểu “cha chung không ai khóc”. Bộ Y có thể chỉ trích Bộ X rằng Bộ X là đơn vị chủ trì việc quản lý lĩnh vực Z, vậy thì họ sẽ đợi Bộ X hành động, và khi có vấn đề trong lĩnh vực này thì Bộ X phải là đơn vị chịu trách nhiệm. Ngược lại, Bộ X cũng có thể sẽ “phản pháo” rằng họ là đơn vị chủ trì nhưng chỉ hành động khi có sự phối hợp của Bộ Y (trên, ví dụ, các khía cạnh kỹ thuật chuyên ngành, ngoài tầm hiểu biết chuyên môn và nhận thức của Bộ X), nhưng Bộ Y đã không phối hợp một cách đầy đủ và đúng đắn nên dẫn đến hậu quả, vì thế Bộ Y mới là đơn vị chịu trách nhiệm...
Sự ỷ lại vào nhau và đổ lỗi cho nhau như trên buộc Chính phủ phải thay đổi cung cách quản lý nền kinh tế theo hướng quy trách nhiệm quản lý một ngành, một lĩnh vực nào đó về một mối duy nhất. Nếu như từ trước đến nay như Chính phủ thấy Bộ Công thương là phù hợp hơn trong vai trò là đơn vị chủ trì quản lý giá xăng dầu thì từ nay về sau Chính phủ hãy giao cho duy nhất Bộ Công thương chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc này mà không nên, không cần lôi kéo Bộ Tài chính vào với vai trò “chủ trì” và/hoặc “phối hợp”. Bộ Công thương từ nay trở đi tự xây dựng và áp dụng phương pháp tính giá cơ sở. Kể cả trong trường hợp có nhiều mức thuế suất khác nhau giữa MFN và các hiệp định thương mại tự do thì Bộ Công thương tự quyết định mức thuế áp dụng mà họ thấy phù hợp nhất.
Nhu cầu phải có cơ chế phối hợp với các Bộ khác, ví dụ như Bộ Tài chính, thực ra có thể thay thế hoàn toàn bởi cơ chế yêu cầu và đáp ứng. Ví dụ, vẫn trong lĩnh vực giá xăng dầu, nếu thấy chưa chắc chắn về tính đúng đắn và phù hợp của phương pháp tính giá cơ sở (xét trên khía cạnh nào đó, ví dụ như đảm bảo công tác điều hành giá xăng dầu theo đúng các quy định về Luật Giá) và/hoặc tính hợp lý của việc áp dụng một loại thuế suất nào đó trong nhiều loại thuế suất MFN và các hiệp định thương mại tự do… thì Bộ Công thương có thể gửi công văn tham vấn, yêu cầu Bộ Tài chính giải đáp, cung cấp các nội dung cần thiết để Bộ Công thương dựa vào đó ra quyết định cuối cùng.
Ở đây sẽ có khả năng Bộ Tài chính không “nhiệt tình” và đáp ứng một cách đúng đắn và có trách nhiệm các yêu cầu của Bộ Công thương. Chưa vội bàn đến khía cạnh Bộ Công thương có thể báo cáo Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về sự thiếu trách nhiệm của Bộ Tài chính, trong trường hợp này thì Bộ Công thương vẫn hoàn toàn có thể tự ra quyết định dựa trên tham vấn các chuyên gia của mình, chuyên gia độc lập, và/hoặc lấy ý kiến đóng góp của dư luận như cách nhiều cơ quan chính quyền vẫn làm từ trước đến nay. Nói cách khác, Bộ Công thương vẫn hoàn toàn có thể độc lập ra quyết định (sau khi tham khảo các nguồn), và phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra hậu quả, mà không thể lấy lý do là không nhận được sự phối hợp đúng đắn của Bộ Tài chính để biện minh cho việc chậm chễ hoặc sai lầm trong quản lý giá xăng dầu.
Trở lại với chuyện xử lý sự thiếu trách nhiệm có thể có của Bộ Tài chính. Lúc này cần có vai trò của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc quản lý các Bộ trưởng của mình để không có tình trạng “hỏi không đáp”, hoặc đáp mà như không. Nếu Chính phủ và Thủ tướng không làm tốt được việc này, vẫn để tình trạng đến bản thân Bộ Công thương yêu cầu mà Bộ Tài chính không đáp ứng (đến nơi đến chốn) thì thử hỏi trong quan hệ giữa các doanh nghiệp và người dân với các cơ quan công quyền tình trạng sẽ còn tệ hại đến đâu, và tương lai của việc hô hào cải cách hành chính sẽ đi về đâu?

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).