Monday 18 April 2016

Phát hành 3 tỷ USD trái phiếu quốc tế - Nửa đầu năm nay là thời điểm tốt nhất (Trả lời phỏng vấn Đại biểu Nhân dân, ngày 16/4)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=370614

Cuối tháng 3 vừa qua, Bộ Tài chính tiếp tục có động thái thăm dò thị trường vốn quốc tế nhằm chuẩn bị cho việc phát hành 3 tỷ USD trái phiếu - đã được QH phê duyệt vào năm ngoái.

- Theo ông, việc Việt Nam phát hành 3 tỷ USD trái phiếu quốc tế trong năm nay có điểm nào thuận lợi? 

- Đầu tiên, Việt Nam có thêm thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng cho đợt phát hành, chứ không phải chạy nước rút, vội vã như dự định phát hành vào cuối năm ngoái. Thêm nữa, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã bày tỏ rõ ý định sẽ chỉ nâng lãi suất từ từ và có chừng mực trong năm nay. Dự kiến nâng thêm khoảng 1/2 điểm phần trăm trong 2 đợt thay cho mức 1 điểm phần trăm trong nhiều đợt như kế hoạch tuyên bố ban đầu. Như vậy, nếu Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế trong năm nay thì sẽ vừa có đủ thời gian để chuẩn bị những phương án phát hành khác nhau, vừa tận dụng được mặt bằng lãi suất đang ở mức thấp, tất nhiên là đã cao hơn một chút so với cuối năm trước.

- Còn những khó khăn thì sao, thưa ông?
- Việt Nam càng phát hành muộn thì càng bộc lộ ra nhiều số liệu cập nhật mới bất lợi hơn về tình hình “sức khỏe” vĩ mô của nền kinh tế, đặc biệt về nợ công, thâm hụt ngân sách… là những con số đang xấu đi từng tháng, từng quý. Những diễn biến này bất lợi cho Việt Nam về mặt lợi suất chào mời, cụ thể là phải chào với lợi suất cao hơn để hấp dẫn nhà đầu tư quốc tế để bù đắp vào rủi ro đã và đang tăng lên về kinh tế vĩ mô - cũng chính là khả năng trả nợ - của Việt Nam.

- Như vậy theo ông thời điểm nào là tốt nhất để phát hành ?

- Tôi cho rằng tốt nhất là phát hành ngay trong nửa đầu năm nay.

- Có ý kiến cho rằng, nếu phát hành theo đúng kế hoạch ban đầu - tức là cuối năm 2015 - thì kỳ vọng lợi tức sẽ tốt hơn so với năm nay. Ông có thấy như vậy không?

- Như đã nói ở trên, phát hành vào cuối năm 2015, nhất là trước khi Fed tăng lãi suất vào thời điểm cuối năm 2015, thì Việt Nam sẽ có cái lợi là lợi suất trái phiếu sẽ thấp hơn so với thời điểm sau này, trong năm nay, đặc biệt khi Fed một lần nữa tăng lãi suất vào thời điểm nào đó trong những tháng sắp tới. Bù lại, thời gian cuối năm vừa qua tỏ ra là quá gấp gáp cho Việt Nam để có thể chuẩn bị đầy đủ các phương án phát hành thích hợp với các đối tác thích hợp. Vì vậy, phát hành trong nửa đầu năm nay cũng không phải là phương án tồi.

Chính phủ nhiệm kỳ mới cần thời gian để ghi dấu ấn

- Ngoài phương án phát hành trái phiếu quốc tế, theo ông, Bộ Tài chính còn có thể lách qua “khe cửa” nào khác để cứu ngân sách nhà nước nay không?

- Vì phát hành trong nửa đầu năm nay cũng không phải là phương án tồi nên Bộ Tài chính cần cân nhắc kỹ lưỡng. Nếu thấy chỉ còn con đường phát hành trái phiếu ngoại tệ để bù đắp thâm hụt ngân sách thì cần phải làm sớm, không nên dây dưa, càng để lâu càng bất lợi về mặt lợi suất. Còn nếu thấy vẫn có thể “giật gấu vá vai” ở đâu đó được, ví dụ từ các nguồn thu, từ phát hành bằng VNĐ trong nước, thì tốt nhất là không nên phát hành trái phiếu ngoại tệ ra nước ngoài vì nguồn huy động này có nhiều rủi ro - chủ yếu liên quan đến yếu tố tỷ giá - hơn là lợi ích.

 - Có gợi ý rằng Bộ Tài chính có thể phát hành trái phiếu trong nước bằng ngoại tệ. Quan điểm của ông về đề xuất này như thế nào?

- Ý tưởng này hết sức hời hợt, nguy hiểm. Người ta đơn giản nghĩ rằng người dân và doanh nghiệp đang phải gửi USD với lãi suất 0%, do đó ngân hàng huy động được nguồn vốn USD với lãi suất 0% thì sẽ có khả năng và mong muốn mua trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ với lợi suất chỉ nhỉnh hơn 0% một chút và thấp hơn nhiều so với lợi suất trái phiếu bằng VNĐ. Vì vậy, phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước, theo những người này, là có lợi về mọi mặt.

Nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Người dân và doanh nghiệp có gửi USD vào ngân hàng thì thường chỉ gửi ở dạng không kỳ hạn khi lãi suất hạ xuống 0%. Bởi thế các ngân hàng thương mại Việt Nam dù muốn cũng sẽ không thể huy động được với số lượng ngoại tệ đủ lớn và quan trọng hơn là có kỳ hạn tương đối dài để có thể phần nào khớp với kỳ hạn trái phiếu của Chính phủ. Ngược lại, thực tế còn cho thấy các ngân hàng đang phải “đi đêm” với cá nhân và doanh nghiệp có tiền gửi USD để huy động được USD đáp ứng cho các nhu cầu của ngân hàng. Do đó, không có lý do gì các ngân hàng lại có thể bằng lòng và có khả năng mua trái phiếu ngoại tệ của Chính phủ với lợi suất “bèo”, nếu như không muốn nói ngược lại là thậm chí còn cao hơn cả khi Chính phủ phát hành ra nước ngoài. Minh chứng cho điều này là gần đây Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã phải huy động 200 triệu USD từ nước ngoài chứ không phải từ thị trường trong nước.

- Theo ông, bộ máy Chính phủ nhiệm kỳ mới có ảnh hưởng như thế nào đến việc phát hành trái phiếu quốc tế lần này?

- Còn quá sớm để kỳ vọng những tác động theo hướng tích cực nào đó từ Chính phủ nhiệm kỳ mới. Chính phủ nhiệm kỳ mới cần phải có thời gian ít nhất một vài quý để ghi dấu ấn lên nền kinh tế, lên kỳ vọng của nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhưng ít ra thì cũng có thể kỳ vọng Chính phủ mới sẽ tiếp tục những công việc dang dở của Chính phủ nhiệm kỳ trước, nên vị thế và xếp hạng rủi ro tín dụng của Việt Nam ít ra sẽ không có thay đổi theo chiều hướng đi xuống.

- Xin cảm ơn ông!
Hồng Loan thực hiện

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).