Mỗi ngày, mỗi tuần
trôi qua dư luận lại được thêm một phen bàng hoàng về những con số hàng ngàn tỷ
đồng là số tiền có khả năng mất trắng trong những dự án đầu tư đủ loại của nhiều
doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Nhiều trong số những dự án kiểu này, ví dụ như
Gang thép Thái Nguyên, Xơ sợi Đình Vũ, hay các nhà máy sản xuất xăng sinh học từ
Bắc vào Nam, hoặc thậm chí các dự án hạ tầng cơ sở như đường sắt trên cao, chỉ
được biết đến rộng rãi khi chủ dự án, các DNNN, lên tiếng kêu cứu Chính phủ để
xin ưu đãi đặc biệt, xin “chính sách hỗ trợ” nhằm giúp các dự án này hoàn tất
hoặc thoát khỏi cảnh đóng cửa vì hoạt động không hiệu quả.
Điều đáng nói là
không phải Chính phủ đều trực tiếp rót, cấp phát vốn ngân sách vào các dự án
này. Đa phần những dự án này thu xếp vốn xây dựng với các tổ chức tài chính
trong và ngoài nước dưới sự bảo lãnh vay vốn của Chính phủ. Trên thực tế, đúng
là Chính phủ không đi vay đâu đó rồi trực tiếp cấp phát vốn vay này (tức đã trở
thành vốn ngân sách) cho các chủ dự án này. Bằng cách này Chính phủ trên danh
nghĩa không làm tăng nợ công, vì cái mà họ làm chỉ là bảo lãnh cho vay.
Tại sao Chính phủ phải bảo lãnh cho vay?
Nhiều dự án được
đầu tư xây dựng theo quy hoạch phát triển của ngành, của địa phương, của trung
ương nên tính hiệu quả và cấp thiết nhiều khi chỉ hoặc là yếu tố phụ, hoặc là
được “vẽ” ra để hợp lý hóa chủ trương đầu tư theo quy hoạch, trong khi bản thân
các quy hoạch cũng có nhiều chuyện phải bàn, ít ra thì cũng phải bổ sung, thay
đổi, điều chỉnh theo thời gian, ví dụ quy hoạch xi măng, điện, thép, xăng dầu...
Bởi vậy, thông
thường nếu chủ đầu tư mang những dự án này ra để huy động vốn theo các điều kiện
thương mại, qua các kênh như trái phiếu dự án, trái phiếu doanh nghiệp, hoặc vốn
vay ngân hàng, thì sẽ chẳng mấy nhà đầu tư nào dám mua trái phiếu của họ, hay
ngân hàng nào dám cho họ vay vì sự rủi ro quá cao. Còn nếu trông chờ vào vốn
rót từ ngân sách thì cũng chẳng thể nào có (đủ), cho dù Chính phủ có muốn trợ
giúp đến đâu chăng nữa trong bối cảnh thâm hụt ngân sách kinh niên với nợ công
vượt trần.
Mọi sự sẽ khác đi
về cơ bản nếu thay vì trực tiếp rót vốn vào dự án, Chính phủ đứng ra bảo lãnh
cho vay cho dự án. Bằng cách này, các chủ nợ tiềm năng của dự án đã bớt đi được
một rủi ro, mối lo chính, là khả năng con nợ - chủ dự án – không trả được nợ đã
vay, vì khi đó Chính phủ sẽ là người phải đứng ra gánh trách nhiệm chi trả.
Bảo lãnh của
Chính phủ còn có tác dụng tích cực quan trọng khác nữa là làm cho lãi suất đi
vay thấp hơn và các điều kiện khác của khoản vay dễ dàng hơn so với trường hợp
các ngân hàng cho vay không có bảo lãnh của Chính phủ. Nhờ đó, tính hiệu quả, nếu
có, của dự án cũng được “nâng tầm” lên một bước để các chủ dự án dễ dàng xin được
phê duyệt của các cấp có thẩm quyền hơn, còn Chính phủ cũng “dễ ăn dễ nói” hơn
với quốc dân khi phải giải trình, biện hộ cho việc chấp nhận chủ trương đầu tư này
(rằng, ví dụ, dự án có hiệu quả cao, không sử dụng ngân sách).
Tại sao các dự án được Chính phủ bảo lãnh cho vay
lại hay “trục trặc”?
Thực ra hay “trục
trặc” không phải là thuộc tính riêng của các dự án có bảo lãnh cho vay của
Chính phủ, mà điều này còn đúng cho phần lớn các dự án của DNNN, dự án có sử dụng
vốn ngân sách. Điểm chung của các dự án của DNNN, sử dụng vốn ngân sách, hoặc
được Chính phủ bảo lãnh cho vay là các chủ dự án không có động cơ tính toán chi
li và sử dụng hiệu quả đồng vốn bỏ ra như với dự án của các ông chủ tư nhân.
Ngược lại, sự vụ
lợi làm cho các bên liên quan của dự án, từ chủ dự án, đến nhà thiết kế, tư vấn,
phê duyệt, xây dựng và giám sát dự án, có xu hướng cố tình che giấu sự kém,
không hiệu quả của dự án. Bởi vậy mới có chuyện khi thiết kế và phê duyệt dự án
người ta đã “quên” không đưa các hạng mục cơ bản như thăm dò, xử lý nền móng đất
yếu, đào tạo nhân viên, làm đường vận chuyển nguyên vật liệu và sản phẩm, hoặc
một số loại chi phí khác như “trượt giá” và tỷ giá… vào trong tính toán tổng
chi phí dự án, làm cho dự án thoạt đầu có tổng mức đầu tư thấp xa so với thực tế
sau này. Bởi vậy mới có chuyện nhà thầu thiết kế và tư vấn dự án thì luôn “chưa
có kinh nghiệm”, nên luôn bỏ sót, tính thấp đi hoặc làm phát sinh chi phí. Và bởi
vậy mới có chuyện dự án dang dở, đội vốn, hoặc có hoàn thành thì cũng “năm ngày
ba tật” với giá thành sản phẩm đội lên trời.
Đến đây, cần lưu
ý một điểm chung khác có trong nhiều dự án như nêu trên. Đó là nhiều dự án sử dụng
công nghệ và thiết bị Trung Quốc, nhà thầu xây dựng Trung Quốc. Thực tế này đã
hướng dư luận tập trung vào phê phán việc sử dụng các yếu tố liên quan đến
Trung Quốc như là nguồn gốc của mọi vấn đề, chứ không phải là các bên liên quan
về phía Việt Nam. Công bằng mà nói, nhà thầu Trung Quốc, thiết bị và công nghệ
Trung Quốc hiện diện khắp khu vực và thế giới, kể cả ở nhiều nước tiên tiến.
Nên cũng phải công bằng mà nói sự thất bại của các dự án ở Việt Nam trước tiên
và chủ yếu là do các yếu tố chủ quan, về phía Việt Nam.
Chính phủ nên làm gì?
Như đã nói, dù chỉ
là đứng ra bảo lãnh cho vay, nhưng Chính phủ sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ
hộ chủ dự án khi dự án thất bại, và kết quả nhãn tiền hầu như là như vậy. Nếu
Chính phủ không muốn sự bảo lãnh của mình được hiện thực hóa ngay thành nghĩa vụ
trả nợ thay cho chủ đầu tư thì Chính phủ buộc phải tiếp tục trò chơi rủi ro
hơn, tốn kém hơn. Đó là tiếp tục bảo lãnh hoặc chỉ định cho vay để “nuôi” dự án
cho đến lúc nó được hoàn thành hoặc, nếu đã hoàn thành, tiếp tục tồn tại kiểu
“xác sống”. Nhưng cách này cũng chỉ là để mua thời gian. Sự phá sản của dự án sớm
hay muộn sẽ xảy ra vì bản thân dự án đã sai, đã được ngụy tạo ngay từ đầu, nên
mọi sự cố gắng giữ cho nó tồn tại chỉ là ném tiền qua cửa sổ dưới hình thức này
hay hình thức khác.
Vậy, lời khuyên
dành cho những dự án dang dở, đang kêu cứu Chính phủ là “thà đau một lần”, hãy
để cho chúng chết đi, chấp nhận gánh chịu những hậu quả và tổn thất do chúng để
lại để khép lại một chương xám xịt trong lịch sử kinh tế cận đại (về DNNN và đầu
tư công) của Việt Nam.
Trong tương lai,
cần nhanh chóng giảm thiểu bảo lãnh Chính phủ nói riêng, và đầu tư công nói
chung, chỉ thực hiện trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, bất khả kháng như thiên
tai địch họa hay khủng hoảng đồng hành bởi các rủi ro đổ vỡ to lớn cho nền kinh
tế làm cho không mấy nhà đầu tư nào còn dám tin tưởng bỏ vốn ra nữa.
Trong hoàn cảnh
thông thường, hầu như không có lĩnh vực nào, địa phương nào lại không thể kêu gọi,
không thể để cho nhà đầu tư tư nhân tham gia sản xuất, cung cấp sản phẩm và dịch
vụ theo yêu cầu của nhà nước, kể cả những lĩnh vực như an ninh quốc phòng, theo
đó nhà nước đứng ra đặt hàng qua đấu thầu và dùng ngân sách để chi trả, như mô
hình ở nhiều nước khác cho thấy.
Nếu vì một lý do
nào đó mà Chính phủ vẫn thấy cần phải trực tiếp đầu tư, trực tiếp đứng ra bảo
lãnh cho một doanh nghiệp nào đó trong một lĩnh vực nào đó thì điều này chỉ nên
được thực hiện khi đảm bảo được rằng mọi quyết định đầu tư được xây dựng, phản
biện, đánh giá, thực hiện, giám sát, và giải trình một cách công khai, minh bạch,
cầu thị và đúng đắn.
No comments:
Post a Comment