Tuần qua, Bộ Công Thương đã giải trình trước Quốc hội về
5 dự án ngàn tỉ “đắp chiếu”, gồm Xơ
sợi Đình Vũ, Gang thép Thái Nguyên, Bột giấy Phương Nam, Đạm Ninh Bình, Nguyên
liệu sinh học Dung Quất. Cũng theo Bộ Công Thương thì ngoài 5 dự án này ra còn một
số dự án khác còn tiềm ẩn nguy cơ và tồn đọng các vướng mắc, nếu không tháo gỡ
kịp thời sẽ có khả năng rơi vào tình trạng kém hiệu quả, gây nguy cơ mất vốn nhà
nước và xã hội.
Về nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất thoát, kém hiệu quả
ở 5 dự án trên, Bộ Công Thương nêu những lý do như: thực trạng dự án khác xa
tính toán ban đầu; quá trình điều hành thực hiện của chủ đầu tư và cấp quản lý
chưa đến nơi đến chốn...
Sai ngay từ gốc
Tuy nhiên, những nguyên nhân mà Bộ Công Thương đưa ra ở
trên xem ra quá sơ sài, thậm chí chỉ là hậu quả chứ không phải nguyên nhân. Cụ
thể, về nguyên nhân thực trạng dự án khác xa tính toán ban đầu, đây có thể nói
thẳng là kết quả của nhiều nguyên nhân như khi thiết kế các bên liên quan đã cố
tình tính toán thấp chi phí và tính cao lên giá bán trong tương lai để đảm bảo
dự án có lãi. Hoặc quá trình lựa chọn nhà thầu, thi công dự án, sử dụng vốn đã
có những hành động vụ lợi, khuất tất, “đi đêm” để cùng nhau “tàn phá” các dự án
này đến nỗi chúng gần như không được hoàn thành, hoặc hoàn thành thì cũng hoạt
động theo kiểu “năm ngày ba tật”.
Để minh họa, hãy xem kết quả thanh tra của Chính phủ vừa
công bố về các nhà máy nhiên liệu sinh học ethanol, trong đó có nhà máy ethanol
Phú Thọ. Theo đó, Tổng công ty Xây lắp Dầu khí (PVC) đã được Tập đoàn Dầu khí
(PVN) chấp thuận cho thực hiện gói thầu EPC cho dự án này theo hình thức chỉ định
thầu mà không hề qua đấu thầu. Vấn đề còn tệ hại hơn nữa khi PVC không hề có
kinh nghiệm thực hiện hợp đồng EPC trong các dự án nhiên liệu sinh học hoặc các
dự án có tính chất tương tự. Thanh tra Chính phủ đã kết luận việc chỉ định thầu
để PVC thực hiện các công việc chính của dự án khi hạn chế năng lực và chưa có
kinh nghiệm đã vi phạm Luật Đấu thầu và là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc ngừng
thi công dự án từ tháng 11/2011, và khó có thể tiếp tục thực hiện.
Chưa hết, trong quá trình thi công, cả PVC, PVN và chủ đầu
tư là công ty CP Hoá dầu và nhiên liệu sinh học dầu khí (PVB) đã cùng nhau vi
phạm nhiều quy định của pháp luật như chấp nhận cho PVC tăng chi phí một cách
sai nguyên tắc, không bắt PVC bảo lãnh thực hiện hợp đồng…
“Chữa cháy” ra sao?Kết quả thanh tra như trên của Thah tra Chính phủ có một số hàm ý quan trọng. Việc cố tình vi phạm các nguyên tắc, quy định trong quá trình chọn nhà thầu và tổ chức thực hiện của tất cả các bên liên quan đến các dự án dang dở như trên không những chỉ gây tổn thất cho ngân sách vì phải chi nhiều hơn cho cùng một dự án so với dự toán ban đầu, mà còn gây ra hậu quả khó có thể khắc phục được là chất lượng thi công, lắp đặt máy móc, thiết bị không đảm bảo như yêu cầu do nhà thầu EPC không có năng lực.
Do đó, để có phương án “chữa cháy” phù hợp cho những dự
án “đắp chiếu” này thì điều đầu tiên phải làm rõ là tình trạng có thể phục hồi
các dự án này được không. Ví dụ, với những dự án như ethanol Phú Thọ, đã dừng
thi công từ tháng 11/2011 và trở nên dang dở bởi PVC không có khả năng thực hiện,
nếu tính toán cụ thể chi phí bỏ ra để sửa sai, chữa lại hoặc thay thế những gì
PVC bỏ lại hoen gỉ đằng sau lưng, đồng thời tiếp tục bỏ tiền ra để mua sắm và lắp
đặt thiết bị để thực hiện tiếp dự án mà cho ra kết quả là sẽ còn tốn kém hơn cả
nếu xây dựng lại từ đầu thì tốt nhất là “dẹp tiệm” dự án này. Bởi chuyện này
cũng tương tự như xây một ngôi nhà cao tầng dang dở mà cái móng của nó đã bị
xây sai do thợ vụng (chưa nói đến chuyện bị bớt xén, đánh tráo nguyên vật liệu),
thì dù có bỏ tiền ra để tiếp tục xây tiếp thì cũng không có gì bảo đảm ngôi nhà
sẽ đứng vững nhiều năm sau này khi đưa vào sử dụng. Lúc đó, điều tốt nhất có thể
làm là phải phá bỏ cái móng đó và xây lại từ đầu.
Với những dự án chưa đến nỗi bị “bỏ ngang” như ethanol
Phú Thọ, thì phải xem liệu có nên bỏ thêm tiền ra để sửa chữa, thay thế thiết bị,
máy móc và đồng thời xây dựng, lắp đặt lại. Ở một số dự án, ví dụ như Đạm Ninh
Bình, những người có trách nhiệm đưa ra một số lý do, trong đó đáng chú ý là
máy móc không đồng bộ, hay hỏng vặt… Điều này làm người ta nghi ngờ nhà thầu
và/hoặc chủ đầu tư đã cố tình ăn bớt hoặc mua thiết bị, linh kiện và phụ tùng
thứ phẩm, không đúng quy cách để “ăn” chênh lệch giá, giảm giá thành gây tổn hại
đến chất lượng hoạt động chung của dự án.
Nếu đúng là như vậy thì cũng phải tính toán lại bài toán
kinh tế, mạnh dạn xóa bỏ khi cần. Như một cái xe máy Tầu, lắp đặt phụ tùng
“trung ương”, chất lượng cũng đã gây hoài nghi, nay lại còn bị “tráo” bởi phụ
tùng “địa phương”, “năm cha ba mẹ” thì nó chạy được, không xảy ra sự cố và tai
nạn lúc nào là may lúc đó. Trong trường hợp này, tính tổng cộng công sửa chữa,
mua lẻ thay thế phụ tùng, tính kèm thêm với rủi ro hoạt động không ổn định, an
toàn, tốn xăng… có khi còn tốn hơn cả mua một chiếc xe mới và bán sắt vụn chiếc
xe cũ này.
Với những dự án khác đã hoàn thành, tuy có nhúc nhắc hoạt
động được nhưng hoạt động ngày nào gây lỗ ngày đó, ví dụ như Xơ sợi Đình Vũ thì
phương án xử lý có đôi chút khác biệt. Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ về
Xơ sợi Đình Vũ, chủ đầu tư và nhà thầu đã không tuân thủ quy định của hợp đồng,
thay đổi nguồn gốc xuất xứ nhiều thiết bị, và nhiều thiết bị khác sau khi nhập
về sử dụng đã bị trục trặc, hỏng hóc. Như vậy, cũng tương tự như với các dự án
ethanol trên, việc đầu tiên phải làm với những dự án như Xơ sợi Đình Vũ là thẩm
định, đánh giá lại chất lượng, hiệu quả của hệ thống máy móc thiết bị, chất lượng
xây dựng và lắp đặt xem có đảm bảo đúng như yêu cầu kỹ thuật và hiệu quả kinh tế
hay không (ví dụ, tỷ lệ hao phí nguyên nhiên liệu và sản phẩm lỗi trên một đơn
vị thành phẩm…). Nếu thấy những vấn đề về kỹ thuật không thể khắc phục được, hoặc
quá tốn kém so với vốn đầu tư ban đầu thì cũng phải tính đến phương án thanh lý
nhà máy.
Nếu thấy các tồn tại về kỹ thuật có thể khắc phục được
thì cần chuyển sự chú ý sang những tồn tại về mặt kinh tế. Việc thua lỗ ở những
dự án kiểu này còn bởi suất đầu tư quá cao do bị đội vốn (một cách gian dối bởi
những người trong cuộc). Đây là một nguyên nhân không thể sửa chữa, khắc phục
được nữa. Vậy, muốn cố gắng duy trì hoạt động của dự án mà không gây thêm thua lỗ
quá lớn nữa thì một trong các giải pháp khắc phục là phải tập trung vào kiểm
soát, cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng quản trị của dự án. Những tồn tại mà
Thanh tra đã chỉ ra như lực lượng cán bộ công nhân quá dư thừa so với yêu cầu của
dự án cho thấy việc cắt giảm chi phí đã không được coi trọng đúng mực bởi những
người quản lý ở cấp cao nhất dự án mà động cơ, năng lực điều hành của họ là một
dấu hỏi lớn.
Nếu tất cả các biện pháp cắt giảm chi phí có thể thực hiện
được vẫn sẽ không giúp cắt giảm được thua lỗ và thời gian hoàn vốn vẫn kéo dài
hàng chục năm thì điều này có nghĩa là dự án đã lâm vào bế tắc và giải pháp duy
nhất chỉ là cho phá sản, thanh lý dự án. Lúc đó, tất cả những lý do đưa ra để
biện minh cho việc duy trì dự án như giải quyết công ăn việc làm, bảo đảm đời sống
cho cán bộ công nhân viên, hay to tát hơn, là gây mất vốn nhà nước, vốn xã hội,
là đảm bảo an ninh nguyên liệu, giảm phụ thuộc nhập khẩu, giảm nhập siêu, hay
phát triển chuỗi sản xuất… đều chỉ là ngụy biện. Chí ít thì việc không phải bù
lỗ vài ngàn tỷ đồng/năm cho mỗi một dự án “xác sống” loại này để chúng tiếp tục
tồn tại sẽ là thừa đủ để bù đắp những “hậu quả” khi các dự án này được đem đi
chôn!
No comments:
Post a Comment