Friday 15 May 2020

Phép thử của Chính phủ kiến tạo (Bài đăng trên TBKTSG bản in, ngày 6/5/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/303267/tbktsg-so-19-2020-tram-dau-do-dau…-trai-phieu-doanh-nghiep.html

Khẩu hiệu xây dựng Chính phủ kiến tạo đã và đang được cố gắng hiện thực hóa đưa vào cuộc sống từ nhiều năm nay. Cho đến nay, một số kết quả bước đầu đã được ghi nhận, như nỗ lực cắt giảm thủ tục kinh doanh của các bộ. Tuy vậy, vẫn còn nhiều tồn tại dai dẳng đến mức thành vô lý đang thách thức nghiêm trọng tính khả thi của khẩu hiệu này.

Một ví dụ điển hình của những tồn tại đó là chuyện doanh nghiệp nhà nước (DNNN) không công bố, hoặc công bố không đầy đủ thông tin theo quy định. Đã không biết bao nhiêu lần từ năm này qua năm khác vấn đề này được mang ra thảo luận, nhắc nhở, thúc giục và “yêu cầu nghiêm túc thực hiện” ở, bởi mọi cấp độ lên đến Thủ tướng. Nhưng rồi sự việc đâu vẫn hoàn đấy, không hề có triển vọng được cải thiện.

Đối tượng được mang ra phê phán trước tiên là các lãnh đạo DNNN. Điều này cũng đúng vì chắc không ít người đã hoặc cố tình coi nhẹ, xem thường quy định pháp luật về công bố thông tin, hoặc thậm chí có những lý do “khó nói” để trì hoãn việc công bố này, như, ví dụ, muốn che giấu những khoản kinh doanh thua lỗ, những giao dịch mờ ám, mang tính trục lợi.

Tuy nhiên, đã và sẽ có không ít DNNN lại đổ lỗi vấn đề này là do sự chậm chễ của cơ quan chủ quản, cơ quan đại diện chủ sở hữu trong việc phê chuẩn các kiến nghị, giải trình của DNNN, làm chậm chễ hoặc không đảm bảo chất lượng thông tin mà DNNN phải công bố theo quy định. Trong khi đó, cơ quan đại diện chủ sở hữu cũng không làm tròn trách nhiệm của mình theo quy định, như không đôn đốc triệt để doanh nghiệp công bố thông tin, hoặc không thực hiện đầy đủ nhiệm vụ về công bố thông tin của bản thân mình, gồm không xây dựng chuyên mục riêng về công bố thông tin, chưa thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm về công bố thông tin...(1).

Ở cấp quản lý cao nhất, Chính phủ và Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, có thể thấy rõ tinh thần “quyết liệt” trong thực thi pháp luật về công bố thông tin của DNNN, được thể hiện chủ yếu ở các công văn, các hội nghị, cuộc họp thúc giục, yêu cầu các cấp, ngành và DNNN công bố thông tin theo quy định. Nhưng đáng tiếc là sự quyết liệt này không đi kèm với chế tài cho những cá nhân, bộ phận không tuân thủ pháp luật, mà bằng chứng là tình trạng vi phạm vẫn cứ diễn ra tràn lan kéo dài từ năm này sang năm khác.

Trước tình trạng ai cũng có phần lỗi của mình, sẽ là không đủ, không thỏa đáng để quy kết hoàn toàn trách nhiệm cho một đối tượng cụ thể nào đó, nhất là DNNN.

Đương nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật trắng trợn nhưng “hòa cả làng” cũng không được phép để xảy ra đối với một Chính phủ kiến tạo, đặc biệt là khi pháp luật này liên quan đến tăng cường tính minh bạch và nỗ lực nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN. Ngược lại, cũng không thể nhẹ nhàng, dễ dãi đổ lỗi cho “cơ chế”, hay sự “không đồng bộ”, “chưa hoàn thiện” của hệ thống pháp luật..., bởi những lỗi này đều là lỗi chủ quan, có thể khắc phục được một khi Chính phủ quyết tâm cải cách và... kiến tạo!

Như vậy, sẽ là không quá lời khi nói rằng việc xử lý vấn đề vi phạm pháp luật về công bố thông tin của DNNN sẽ là một phép thử cho khả năng và sự tồn tại của Chính phủ kiến tạo.

Cần làm gì và như thế nào để khắc phục vấn nạn công bố thông tin của DNNN không phải là mục đích và tầm của bài viết này, nhưng xin nói rằng phương cách xử lý hiện tại chắc chắn sẽ không đi đến đâu, như thực tế đã chứng minh.

Do đó, nếu cho rằng, nhận thức được rằng sẽ khó hoặc không xử lý được việc vi phạm các quy định pháp luật về công bố thông tin của DNNN thì, thay vì bãi bỏ các quy định này, Chính phủ hãy thể hiện sự kiến tạo của mình bằng cách triệt để cải cách DNNN, gồm tư nhân hóa chúng, chỉ giữ lại một số ít DNNN thiết yếu, không thể không có và việc công bố thông tin về chúng là không cần thiết.
(1) https://tinnhanhchungkhoan.vn/doanh-nghiep/gan-30-doanh-nghiep-nha-nuoc-van-chua-thuc-hien-cong-bo-thong-tin-319960.html

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).