Sunday 27 November 2011

Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước - Có dám cắt bỏ những gốc rễ của yếu kém không? (Dang tren Dai bieu Nhan dan)

07:41 | 27/11/2011

Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được xác định là một trong 3 yếu tố gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô và vì thế chúng đã được đưa vào thành một bộ phận quan trọng của chương trình tái cấu trúc kinh tế.

Thực ra, như chúng ta đã đề cập ở số báo trước, tái cấu trúc doanh nghiệp về bản chất không phải là hiện tượng mới. Tái cấu trúc DNNN thực tế đã được bắt đầu từ đầu thập niên 90 với tên gọi là đổi mới và sắp xếp lại DNNN thông qua các biện pháp giải thể, cho thuê, sáp nhập, cổ phần hóa, xây dựng thành các tổng công ty, rồi tập đoàn, rồi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên v.v...

Cho đến nay, mặc dù con số DNNN còn tồn tại chỉ vào khoảng 1.500 doanh nghiệp với 12 tập đoàn kinh tế nhà nước, chúng vẫn nắm một nguồn lực lớn của đất nước và chi phối thị trường trong nước ở nhiều lĩnh vực nhưng lại hoạt động rất kém hiệu quả - những thực tế đã được nêu đầy đủ trên các phương tiện thông tin đại chúng mà chúng ta không cần phải nhắc lại ở đây.

Vậy đâu là gốc rễ của vấn đề kém hiệu quả, gây bất ổn kinh tế vĩ mô từ các DNNN, để từ đó mới nảy sinh nhu cầu tái cấu trúc chúng? Nếu đã hiểu được các gốc rễ rồi thì liệu chúng ta có dám cắt bỏ những cái gốc rễ đó để cho quá trình tái cấu trúc thành công hay không?

Gốc rễ đầu tiên là sự nhập nhằng chức năng kinh doanh thuần túy như một doanh nghiệp thực thụ trong nền kinh tế thị trường, và chức năng được gọi một cách khá bất cẩn là “ổn định kinh tế vĩ mô”, hay đôi khi còn được gọi là “nhiệm vụ chính trị”, vốn thường được hiểu một cách đại khái, theo quy định bất thành văn, là phải làm những việc mà ông chủ sở hữu của nó, nhà nước, mà người đại diện là Chính phủ chỉ định phải làm một cách hoàn toàn theo mệnh lệnh hành chính.

Tất nhiên, khi đã phải đóng một lúc 2 vai có lợi ích xung đột với nhau thì rốt cuộc chẳng vai nào sẽ ra cái gì. Và thực tế đúng là vậy. Chưa nói đến chuyện DNNN còn không bỏ lỡ cơ hội dùng cái vai “nhiệm vụ chính trị” để làm bình phong che giấu những hoạt động sai trái và cái cớ để đổ lỗi cho kết quả kinh doanh yếu kém của mình mà không hiếm khi là do sự kém cỏi của đội ngũ quản lý.

Về phía Chính phủ, vì phải để DNNN kinh doanh có lãi hòng lấy đó để thực hiện các “nhiệm vụ chính trị” nên buộc phải luôn ưu tiên và tạo điều kiện tối đa bằng các ưu đãi vật chất và cơ chế “đặc thù” cho các DNNN. Vì thế mới có chuyện được ưu tiên rót vốn ngân sách, vay vốn ngân hàng hoặc trái phiếu Chính phủ với lãi suất thấp, được cấp đất, xây dựng cơ sở hạ tầng sẵn, độc quyền hoặc gần như độc quyền trong những lĩnh vực hoạt động của mình và hàng loạt cơ chế dành riêng cho “con cưng” khác, mà rốt cuộc là khu vực doanh nghiệp tư nhân và FDI, và toàn bộ nền kinh tế phải gánh chịu. Điều đáng nói hơn là DNNN ra sức khai thác những nguồn lợi này cho lợi ích riêng của họ.

Như thế, việc đầu tiên cần làm với tái cấu trúc DNNN là phải quyết định xem liệu chúng ta có dám chấp nhận để DNNN chỉ đơn thuần là doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thuần túy hoạt động theo đuổi lợi nhuận như bất kể doanh nghiệp nào khác trong một nền kinh tế thị trường hay không? Còn nếu vẫn muốn có các doanh nghiệp để đảm đương các việc công ích thì hãy biến chúng thành công ích phi lợi nhuận đơn thuần. Hoặc tốt hơn nữa là nhà nước sẽ thuê/đặt hàng các DNNN (lúc này hoạt động như một doanh nghiệp thông thường) và/hoặc các doanh nghiệp tư nhân, FDI, liên doanh v.v... thực hiện những việc công ích này, với nguồn kinh phí được trích ra từ chính phần kinh phí đã tiết kiệm được do không phải rót vốn, bù lỗ cho (hoặc cắt giảm phần giao nộp, đóng góp theo nghĩa vụ) của DNNN khi bắt chúng phải khoác thêm cái vai “nhiệm vụ chính trị”. Đương nhiên là lúc này chuyện thuê sẽ phải được làm công khai và minh bạch để không còn chuyện DNNN thì sẽ được ưu tiên hưởng lợi từ các đơn đặt hàng của nhà nước.

Gốc rễ tiếp theo ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của các DNNN xuất phát từ chủ trương biến chúng thành những “quả đấm thép” với ước mong lãng mạn là chúng có thể lớn mạnh như Thánh Gióng đủ sức cạnh tranh với thế giới. Cũng tương tự như với “nhiệm vụ chính trị”, chức năng “quả đấm thép” này dẫn đến hàng loạt những ưu tiên, ưu đãi để mong chúng lớn mạnh nhanh chóng, mà Vinashin là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, “quả đấm thép” này lại được gắn vào cơ thể tham lam nhưng kém cỏi, để rồi chỉ, như có người ví von, đấm lại chính chúng ta.

Sẽ có người biện hộ rằng nếu không có những “con sâu” như những bị cáo vụ Vinashin thì Vinashin sẽ là một điển hình thành công cho mô hình “quả đấm thép”. Hãy khoan nói đến những yếu tố về cơ chế, con người và tư duy vốn tất yếu sẽ tạo ra những con sâu như vậy, không sớm thì muộn, mà để thay đổi được những yếu tố này thì cũng tương đương với việc xóa bỏ luôn mô hình kiểu Vinashin. Mô hình xây dựng các “quả đấm thép” từ con số 0 hoặc từ những mảnh chắp vá trong bối cảnh hiện thời ở Việt Nam và trên thế giới, và trong mối quan hệ giữa Việt Nam với thế giới thông qua các thỏa thuận song phương và đa phương hoàn toàn khác xa so với cũng mô hình đó (chaebol) ở những nền kinh tế như Hàn Quốc, Singapore trong bối cảnh cách đây 3, 4 thập kỷ. Do đó, cần nghĩ rằng cái gì thành công trong quá khứ thì không nhất thiết sẽ thành công trong tương lai. Trên hết, như nuôi dạy một đứa con cho khỏe mạnh, tử tế, hãy để DNNN tự bò, tự đi bằng đôi chân của mình. Nghĩ rộng ra, tuy môi trường kinh doanh còn rất khó khăn và bất bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân mà hiện nay đã có không ít doanh nghiệp tư nhân vươn lên qua mặt không ít DNNN ở Việt Nam. Điều này tự nó nói lên rằng sự bao bọc không phải là điều kiện cần cho sự thành công.

Khi đã nhận thức được như trên, việc cần làm tiếp theo trong chuyện tái cấu trúc là phải trả lời dứt khoát được câu hỏi liệu chúng ta có dám chấp nhận bỏ đi cái chủ trương này để cắt đi cái nguồn gốc gây ra bệnh tật cho DNNN không?

Gốc rễ thứ ba cho căn bệnh của DNNN là sự chi phối của các nhóm lợi ích. Không ít DNNN, tập đoàn, tổng công ty là sân sau của, hoặc bị chi phối bởi một nhóm lợi ích nào đó, được dựng nên để biến thành công cụ tư lợi cho nhóm lợi ích đó, tất nhiên vẫn dưới những chiêu bài như “quả đấm thép” hoặc khiêm tốn hơn thì là “thiết yếu”, là “ổn định kinh tế vĩ mô” hoặc vv và vv. Vì là sân sau của hoặc bị chi phối bởi các nhóm lợi ích nên sự tồn tại của các DNNN kiểu này đương nhiên là có hại nhiều hơn có lợi cho cả nền kinh tế nói chung.

Từ đây, việc cần làm nữa trong tái cấu trúc DNNN là phải trả lời được câu hỏi liệu có phát hiện ra và xóa đi được cơ chế/cách thức để các nhóm lợi ích chi phối hoặc dựng lên các DNNN không?

Trên đây 3 trong số những câu hỏi căn bản nhất đặt ra trước khi chương trình tái cấu trúc được thành hình và khởi động. Nếu 1 trong 3 câu hỏi này có câu trả lời “không” hoặc “không rõ” thì cầm chắc rằng chuyện tái cấu trúc DNNN lại sẽ lặp lại vết xe đổ trong công cuộc sắp xếp và đổi mới DNNN hai thập kỷ trước đây mà hậu quả vẫn còn để lại tới ngày nay ở mức độ trầm trọng hơn. Mọi giải pháp tái cấu trúc lúc đó sẽ chỉ là nửa vời, không đáp ứng được mục tiêu là lành mạnh hóa DNNN và, nhờ đó, ổn định hóa kinh tế vĩ mô.

Các vấn đề khác liên quan đến tái cấu trúc như cổ phần hóa như thế nào, giữ lại bao nhiêu doanh nghiệp, trong những lĩnh vực nào, xác định được giá hợp lý để thúc đẩy cổ phần hóa, duy trì hay không mô hình mẹ - con, thành lập hay giải tán tập đoàn v.v... chỉ là những vấn đề thứ yếu hoặc kỹ thuật, hoàn toàn có thể xử lý được khi những vấn đề căn bản nêu trên đã được giải quyết.

2 comments:

  1. Anh thích tittle nào hơn?

    ReplyDelete
  2. Cai title nay la on lam roi. Phai cam on dong chi bien tap bao Dai bieu Nhan dan ve cai nay (nguoi doc bao gio cung sang suot hon nguoi viet)

    ReplyDelete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).