Wednesday, 15 August 2012

Đọc báo giùm bạn: Bình luận về chuyện “suy thoái kép” của đồng chí TS Lê Thẩm Dương


Entry này xuất phát từ yêu cầu của một bạn đọc blog này dành cho entry ““Suy thoái kép”?”. Thấy hơi dài nên tớ đưa luôn thành một entry độc lập để bạn đọc dễ theo dõi.
--------------------------------------
Tình cờ là hôm qua tớ có viết lại entry trên cho lịch sự, đầy đủ hơn và gửi sang báo Đại biểu Nhân dân. Họ đã nhận đăng (chắc trong tuần này). Trong đó tớ có bàn cụ thể hơn về khái niệm suy thoái kép, tất nhiên là khác xa so với cách hiểu của đồng chí Dương trong bài báo tớ trích dẫn (suy ra là đồng chí Dương sai không thể đỡ nổi J).

Cái đáng chú ý đầu tiên trong bài lần này (trên Tiền Phong) của đồng chí Dương là đồng chí ấy đã nêu ra rõ ràng (hơn so với bài phát biểu trên VTV bên trên) về cái khái niệm về suy thoái kép, lạm phát kèm suy thoái (Ngọc: suy giảm tăng trưởng?) thành suy thoái kép.

Tớ chịu, chẳng thể bình luận được gì ở đây, vì khái niệm này là made-in-Ho Chi Minh City-by TS Le Tham Duong. Đồng chí ấy bảo thế thì biết thế chứ cãi sao được. Nhưng tớ hơi lăn tăn một chút ở đây, nếu bắt trước tinh thần của nhiều đồng chí khác gọi hiện tượng lạm phát và đình đốn thành “đình lạm”, tại sao đồng chí Dương không gọi lạm phát và suy thoái thành “suy lạm” cho văn vẻ, đồng thời lại an toàn hơn, mà lại cứ nhất định gọi đó là “suy thoái kép” nhỉ?

Thứ hai, qua cách dùng từ của đồng chí ấy, tớ đoán chắc có vấn đề với chữ “kép” này. Câu trước, đồng chí nói: “Suy thoái kép như hình chữ W”, câu sau thì lại nói: “Nới hạn mức tín dụng gây tác dụng phụ là lạm phát và suy thoái nên người ta gọi là hiện tượng suy thoái kép”. Có nghĩa là đồng chí Dương có hẳn 2 định nghĩa vừa không đầy đủ, vừa chẳng ăn nhập gì cho cái gọi là suy thoái kép cả. Trong định nghĩa đầu, đồng chí muốn dùng hình tượng chữ W để minh họa sự thụt xuống 2 cái đáy, để gọi đó là “kép”. Nhưng cái gì tụt xuống 2 cái đáy đó mới được chứ? Trong cái định nghĩa thứ hai, lạm phát (tăng) là một đại lượng khác với suy thoái thì sao gọi hiện tượng vừa lạm phát vừa suy thoái là “kép” được? Nói tóm lại là tớ cho rằng những cách hiểu này là rất ngớ ngẩn, ấm ớ nhưng cũng chỉ bình luận được đến đây vì ...rối quá, lạc mất hút vào ma trận chữ nghĩa của đồng chí Dương.

Thứ ba, thêm một cái sai/thiếu sót cũng xuất phát từ câu: “Nới hạn mức tín dụng gây tác dụng phụ là lạm phát và suy thoái nên người ta gọi là hiện tượng suy thoái kép”. Nới hạn mức tín dụng cũng có nghĩa là tìm cách/cho phép tăng trưởng tín dụng mạnh hơn. Kết quả thường là sẽ dẫn đến tăng tổng cầu và tăng trưởng trong ngắn hạn, chứ đâu có phải là dẫn đến suy thoái (giảm tăng trưởng)? Nếu đúng như đồng chí Dương phát biểu (tăng tín dụng gây ra suy thoái) thì NHNN tội gì phải nới lỏng chính sách tiền tệ, còn các doanh nghiệp tội gì đòi phải được tiếp cận với vốn ngân hàng? Và đồng chí Dương cũng tự phủ định mình khi nói: “Tín dụng phải tăng 6-8% mới hy vọng khôi phục được DN, mới đạt được mục tiêu GDP đề ra”. Nói thế này cũng có nghĩa là đồng chí Dương công nhận phải tăng tín dụng mới tăng được GDP mà!

Thứ tư, cũng liên quan đến câu nói trên: “Tín dụng phải tăng 6-8% mới hy vọng khôi phục được DN, mới đạt được mục tiêu GDP đề ra”. Cơ sở nào để đồng chí nói tín dụng phải tăng 6-8% mới đạt được mục tiêu GDP đề ra (6-6,5%)? Tớ cược 1000 ăn 1 rằng đây là câu nói mò của đồng chí. Đồng chí nói sao khi nhớ lại từ cuối năm ngoái NHNN đã đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay phải từ 15-17% mới đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP. Sau này dần dần mục tiêu tăng trưởng tín dụng cứ được sửa dần xuống thấp, còn 10-12%, thậm chí là 5-6%, theo đà tăng thực tế của tăng trưởng tín dụng (thậm chí tín dụng tăng trưởng âm mà tăng trưởng GDP vẫn đạt trên 4% 2 quý vừa qua). Nêu ra chuyện này để đồng chí thấy rằng chẳng có một mối liên hệ nhất quán nào giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng GDP cả, nên cần tránh nói võ đoán cho nó lành.

Thứ năm, và liên quan đến mục thứ tư trên, khi trả lời cho câu hỏi: “Liệu trong thời gian tới NHNN có tiếp tục nới hạn mức tín dụng lên nữa, thưa ông?”, đồng chí Dương trả lời: “Tôi nghĩ NHNN đã tính toán hết, tại sao không phải là 28 hoặc 26%, nên tôi nghĩ nâng lên nữa là không có”. Vì chẳng có cái mối liên hệ nhất quan nào giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng GDP để mà NHNN có thể tính ra cần phải tăng hạn mức tín dụng bao % để GDP tăng 6% cả (các đồng chí bạn đọc khác đừng có nghĩ tớ nói linh tinh đấy nhé! Không tin thì các đồng chí cứ thử tính cho tớ đi, dùng kinh tế lượng hay bất cứ cái gì khác mà cho ra được con số), nên NHNN đưa ra con số xyz nào đó (27%?) về bản chất cũng là nói mò, chẳng khác gì việc đồng chí Dương đưa ra con số tăng trưởng tín dụng phải đạt 6-8% cả!

Tóm lại là qua bài báo ngắn này (và bài trước) tớ nghĩ đồng chí Dương cần phải hạn chế phát biểu, trả lời phỏng vấn càng nhiều càng tốt, vì quyền lợi của bản thân đồng chí ấy. Tuy nhiên, rút kinh nghiệm bản thân của tớ với Tiền Phong (đọc entry “Bài nàykhông phải của tớ”), tớ vẫn dành cho đồng chí Dương một chút ưu ái khi lái bạn đọc sang khả năng đồng chí ấy bị Tiền Phong “nhét chữ vào mồm”, hoặc phóng viên ghi chép linh tinh, nên mới có bài trả lời phỏng vấn ngớ ngẩn thế này.

4 comments:

  1. Dường như ts Lê Thẩm Dương lại sai về khái niệm:
    http://www.thanhnien.com.vn/pages/20120816/tim-von-ngoai.aspx

    ReplyDelete
    Replies
    1. Lời khuyên của tớ dành cho đồng chí Dương (nên giảm thiểu trả lời phỏng vấn và phát biểu công khai) chắc chưa đến được tai đồng chí ấy khi đồng chí ấy trả lời báo Thanh Niên như theo link mà đồng chí cung cấp!

      Đồng chí Dương có mấy cái sai thế này. Thứ nhất, chẳng biết đồng chí ấy nói “trực tiếp” với “gián tiếp” là cái gì. Nếu là chuyện người đi vay tiếp xúc trực tiếp/gián tiếp được với nguồn vốn có thể vay thì chẳng có cái ranh giới nào chia ra thị trường gián tiếp với trực tiếp như đồng chí ấy nói cả. Ngay cả ngân hàng có thể cho vay trực tiếp từ nguồn vốn cổ đông hoặc gián tiếp từ nguồn vốn huy động đâu đó. Quỹ cho thuê tài chính cũng vậy. Còn trên thị trường tiền tệ/vốn thì nguồn vốn cũng lại hoàn toàn có thể là nguồn vốn thứ cấp, tức là đi vay/huy động đâu đó, chứ, ví dụ, người dân có vốn nhàn rỗi (tạm coi là nguồn vốn trực tiếp), đâu có tham gia được?

      Thứ hai, đồng chí ấy coi ngân hàng là thị trường gián tiếp, còn thị trường tiền tệ là thị trường trực tiếp. Sai ở đây vừa về mặt ngữ nghĩa (ngân hàng chỉ là một thành viên tham gia thị trường chứ không phải là thị trường), vừa về khái niệm (các ngân hàng là thành viên không thể thiếu của thị trường tiền tệ). Tớ cũng phải nói trước ở đây là tớ có thể diễn giải sai ý của đồng chí Dương vì quả thật đoạn văn này khó hiểu và rắm rối quá.

      Thứ ba, hình như đồng chí Dương hiểu sai khái niệm tái cấu trúc và mối liên hệ với sự/trình độ phát triển. Chưa phát triển thì để phát triển cần phải nuôi dưỡng, bổ sung, giáo dục, giám sát, chứ chưa chắc cần đến tái cấu trúc, theo nghĩa thường là đi kèm những giải pháp và thay đổi mạnh mẽ về chất của thị trường từ hướng A sang hướng B, từ mức độ C sang D v.v... Nếu, ví dụ, thị trường chứng khoán chỉ có 2, 3 công ty niêm yết thì tái cấu trúc cái gì?

      Ngược lại, tái cấu trúc chưa chắc đã gắn liền với phát triển tốt hơn hoặc tạo ra sự hấp dẫn hơn cho nhà đầu tư (nước ngoài). Các cuộc cải cách tài chính toàn phần hoặc từng phần đây đó trên thế giới hoặc ngay ở Việt Nam (tự do hóa lãi suất) đã tạo ra những biến động, xáo trộn lớn, cuối cùng phải đảo ngược, dừng lại, hoặc hủy bỏ giữa chừng, làm nhà đầu tư hoảng sợ…

      Delete
    2. Vãi cả thằng tự sướng. Tự viết bài tự cmt. Vl thằng anh hùng bàn phím =))

      Delete
    3. Tớ nghĩ mãi mà chưa biết nói gì với anh chàng này. Thôi không chấp, đành AQ thế vậy.

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).