Wednesday, 1 August 2012

Xử lý nợ xấu ở Nhật

Mấy hôm vừa rồi có mấy đồng chí bạn đọc yêu mến cái blog này nhắn nhủ với tớ về chuyện tiếp tục viết lách, làm tớ cảm động quá, muốn lười cũng không lười được thêm nữa. Định trả lời ngay bằng một cái gì đó nhưng rồi lại ngồi thần ra vì không biết viết về cái gì cả, nên đành thôi.  

Hôm nay thì có đồng chí bạn đọc trực tiếp yêu cầu tớ viết về vấn đề xử lý nợ xấu của Nhật (chắc là để rút ra bài học cho Việt Nam) và kèm thêm câu hỏi nếu Việt Nam vay tiền nước ngoài để xử lý nợ xấu liệu có gây ra lạm phát không. May quá, thế là có đề tài! Cảm ơn đồng chí bạn đọc này nhé!

Về cái vấn đề xử lý nợ xấu Nhật, vì đây không phải là mối quan tâm của tớ từ hồi ở Nhật cho đến bây giờ nên tớ phải thú nhận rằng tớ cũng không tường tận lắm, chỉ có thể nói sơ qua ở đây những gì tớ đọc mót, nghe mót đây đó (nhân dịp này xin mạn phép đồng chí bạn đọc này cho tớ mượn cái đề tài của đồng chí để viết một bài nghiêm chỉnh gửi cho báo nào đó. Còn chuyện được đăng hay không nhiều khi cũng phập phù lắm, nhất là với người ấm ớ như tớ trong con mắt báo chí Việt Nam).

Nhận thức đầu tiên của tớ về chuyện nợ xấu ở Nhật là Chính phủ Nhật nhận ra và bắt tay vào xử lý vấn đề nợ xấu khá chậm chạp và không đủ liều lượng, khi nợ xấu đã trở thành rất nghiêm trọng. Cũng giống như ở Việt Nam hiện thời, chuyện xử lý nợ xấu thế nào, bằng phương pháp nào vẫn còn là điều lúng túng trong Chính phủ (vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu 90). Hệ thống thuế của Nhật đương thời cũng không cho phép khấu trừ thuế cho những khoản write-off, còn các ngân hàng Nhật thì cũng không đủ vốn để xử lý nợ xấu.

Sau khi có nhiều vận động hành lang, cuối cùng luật thuế cũng được sửa đổi theo hướng này (1995). Còn NHTƯ Nhật thì tăng bơm tiền, hạ lãi suất để tăng margin cho các ngân hàng thương mại, nhằm tạo điều kiện để chúng có thêm lợi nhuận đưa vào xử lý nợ xấu.

Nhưng tình hình sau đó cũng chẳng cải thiện là mấy, chất lượng tài sản của các ngân hàng tiếp tục xấu đi. Đồng yen mất giá càng làm trầm trọng vấn đề khi tài sản nước ngoài tăng giá, buộc các ngân hàng phải tăng vốn để đảm bảo tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn phụ thuộc hoàn toàn vào vốn vay ngân hàng, trở thành nạn nhân vì các ngân hàng không cho vay nữa mà tập trung xử lý nợ xấu và bảo toàn vốn. Doanh nghiệp phá sản hàng loạt, rồi ngân hàng cũng phá sản (Hokkaido Takushoku Bank, 1997). Sau đó, Chính phủ Nhật ban hành đạo luật cho phép sử dụng công quỹ để mua cổ phiếu ưu đãi của các ngân hàng, tạo vốn cho chúng xử lý nợ xấu. Công ty mua bán nợ xấu tương tự như DATC Việt Nam cũng được mở rộng quy mô để mua bán nợ xấu.

Tóm lại, cách thức và công cụ xử lý nợ xấu rốt cuộc cũng chỉ có từng ấy thứ, với một số trở ngại và rào cản có thể khác nhau ở từng nước, ví dụ các luật lệ hiện hành về thuế, chi tiêu công. Có một điểm tương đồng là, khi quy mô nợ xấu đã ở mức nguy hiểm (ước tính đến nghìn tỷ USD ở Nhật), việc xử lý nợ xấu sẽ phải diễn ra trong cả một thời gian dài, thậm chí rất dài. Hôm nay đồng chí Chủ tịch ngân hàng tớ mới thông báo rằng ngân hàng đã giải quyết xong nợ xấu có khi có từ cái thuở tớ còn đang đi học (cấp 3 hoặc đại học)!

Về câu hỏi của đồng chí bạn đọc trên rằng khi vay nợ nước ngoài để xử lý nợ xấu có làm tăng lạm phát không, đây là câu hỏi khó trả lời và khó có câu trả lời rõ ràng. Thứ nhất, có tăng lạm phát hay không phụ thuộc vào việc NHNN xử lý khoản ngoại tệ đi vay về này thế nào. Nếu NHNN tung tiền đồng ra đối ứng để thu khoản ngoại tệ này, cung tiền đương nhiên sẽ tăng. Nếu NHNN sau đó tung tín phiếu, trái phiếu ra để hút VND, cung tiền sẽ được điều chỉnh ở mức độ tương ứng. Nhưng hành động trung hòa cung tiền này nếu có diễn ra thì chắc quy mô không lớn vì NHNN phải ưu tiên tăng cung tiền, bơm vốn cho các NHTM xử lý nợ xấu, tăng thanh khoản. Kết cục là áp lực lạm phát có thể tăng lên.

Nhưng đây mới chỉ là một vế. Ở vế kia, nếu niềm tin trong dân chúng và doanh nghiệp thấp, cộng với triển vọng phục hồi kinh tế mù mịt, rủi ro đổ vỡ phá sản vẫn lớn thì cung tiền có tăng thêm nhưng rốt cuộc lại nằm chết trong hệ thống ngân hàng hoặc trở ngược lại NHNN thông qua kênh gửi vượt dự trữ bắt buộc hoặc đổi lấy tín phiếu NHNN và trái phiếu Chính phủ (tớ có viết về “bẫy thanh khoản” này), tác động xấu lên tổng cầu, và rốt cuộc cung tiền có tăng nhưng cũng không làm tăng áp lực lạm phát.

Tớ cho rằng nếu đi vay nước ngoài để xử lý nợ xấu thì tốt nhất là NHNN in tiền ra mà làm cái việc này, còn hiệu quả hơn và quan trọng nhất là không gây tổn thất cho ngân sách nhà nước.

T/b: Tớ đề nghị đồng chí bạn đọc nào có đề tài, vấn đề gì quan tâm thì cứ mang ra đây để tớ bình luận nhé, không thì tớ bó tay vì chẳng biết viết cái gì nữa rồi.

5 comments:

  1. xin cảm ơn TS đã có bài viết về nợ xấu,xin TS giúp hiểu biết : Nếu bơm tiền để xử lý nợ xấu sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá và lạm phát? như vậy VN nhập xiêu nhiều sẽ gây lỗ lớn nhiều doanh nghiệp??
    Xin cảm ơn (1 bạn đọc thường xuyên ghé thăm blog của TS.

    ReplyDelete
  2. Bác Ngọc ơi, em đang tính làm đề tài luận văn về AMC ở Việt Nam đó. Bác có tài liệu hay góp ý gì hay hay không cho em tham khảo với. Theo bác thì Việt Nam có nên lập một AMC của NHNN để giải quyết nợ xấu của ngân hàng không? Finance như thế nào?

    ReplyDelete
    Replies
    1. Tớ dạo này lười qua, gần như quên bẵng mất cái blog này nên trả lời đồng chí muộn. Về câu hỏi của đồng chí liên quan đến tài liệu hay góp ý về AMC, trả lời của tớ không thể đầy đủ và hay bằng đồng chí Google được. Đồng chí cứ hỏi đồng chí Google nhé, thế nào cũng ra cả một đống thong tin. Về chuyện thành lập AMC ở Việt Nam, tớ nghĩ là cũng nên vì các giải pháp xử lý nợ xấu cũng chỉ có một số, và đã biết. Mỗi giải pháp lại có cái hay cái dở (trong điều kiện Việt Nam) nên tốt nhất là phải phối hợp nhiều giải pháp khác nhau, và đặc biệt là phải chú trọng đến tính minh bạch, nhất quán trong việc thực thi.

      Delete
  3. Dạo này ít thấy Dr Ngọc viết bài nhé. Nhờ anh phân tích về cơ cấu chỉ số ICOR của viêt nam nhé, theo anh Chí ( giảng viên kinh tế) cơ cấu GDP của việt nam phụ thuộc vào đầu tư công nhiều, mong anh có bài viết cho các độc giả thưởng lãm nhé.và xin hỏi Dr Ngọc Việt nam có bị ảnh hưởng từ hệ lụy của các luồn vốn FDI, kiều hối và FII ( do sữ dụng không đúng) bằng cách tung tiền ra mua USD này làm cung tiền tệ để đầu tư vào khu vực công gây nên hậu quản ngày hôm nay không.
    Xin trân trọng.

    ReplyDelete
    Replies
    1. Quả thật là dạo này tớ cũng ít viết lách thật, phần vì bận rộn, phần vì hay gặp trục trặc với các báo ở Việt Nam nên hoặc là tớ không viết (cho họ) nữa, hoặc là họ không đặt bài tớ nữa, và vì thế không có bài để post trên cái blog này. Các đồng chí bạn đọc có đề tài gì cần trao đổi như thế này thì cứ post lên đây cho tớ nhé.
      Về câu hỏi thứ nhất của đồng chí, cơ cấu GDP phụ thuộc vào đầu tư công nhiều. Cách nói như thế này là không chính xác. Phải nói rằng tăng trưởng GDP phụ thuộc nhiều vào (tăng trưởng) đầu tư công. Hoặc đầu tư công là một cấu thành lớn/chiếm tỷ trọng lớn trong GDP.
      Còn về chuyện có đúng rằng đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn trong GDP hay không, tớ không nắm rõ số liệu tỷ trọng đầu tư công trong GDP (bạn đọc cung cấp số liệu giúp tớ nhé), nhưng có cảm giác rằng không phải vậy. Điều đầu tiên cần làm rõ là về khái niệm đầu tư công. Nếu đầu tư công được hiểu là đầu tư từ ngân sách cộng với đầu tư từ các DNNN (kể cả các liên doanh giữa DNNN với doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân.) thì đầu tư công quả thật là rất đáng kể, có thể nói là chiếm tỷ trọng lớn (nhưng không rõ có thể gọi là chiếm tỷ trọng chi phối trong GDP (dominant, >50%) hay không).
      Nếu đầu tư công chỉ là đầu tư từ ngân sách (tớ nghĩ cái này thì đúng hơn), thì đầu tư công không phải là lớn lắm và chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP, vì bản thân ngân sách cũng chỉ bằng đâu như 20-30% GDP mà lại còn phải chi thường xuyên cho nhiều thứ (trả lương, trả nợ Chính phủ, mua sắm công v.v... Bạn đọc lại cung cấp số liệu ngân sách giúp tớ nhé). Vì thế nói rằng đầu tư công là cấu thành lớn trong GDP là không chính xác (tớ nghĩ rằng người đưa ra nhận định trên có ngụ ý muốn nói rằng đầu tư công chiếm tỷ lệ chi phối trong GDP).
      Về câu hỏi thứ hai của đồng chí, đi vay nợ để chi cho chi tiêu của Chính phủ (chi tiêu công), và nguồn ngoại tệ từ vốn FDI, FII nếu vào Việt Nam và được NHNN mua và tung VND ra đối ứng (mà không trung hòa để cân bằng cung tiền) thì đương nhiên cung tiền VND phải tăng lên (tớ đã viết nhiều về vấn đề này, điển hình là bài này: http://vneconomy.vn/68741P0C19/giai-ma-tang-gia-sao-cu-so-ngon.htm), tăng lạm phát, tăng trưởng nóng, bất cân đối vĩ mô trầm trọng hơn...

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).