Thursday, 29 November 2012

Đọc bài này mà thấy nản quá thôi, chuyên gia ơi là chuyên ra!

http://vneconomy.vn/2012112909423531P0C6/von-cho-doanh-nghiep-duoi-goc-nhin-cua-chuyen-gia-kinh-te.htm

Đồng chí Kiên thì nói: “Để dòng vốn được khơi thông, về phía các ngân hàng thương mại, cần thực hiện chọn lựa khách hàng chính xác, đồng thời cũng có những điều chỉnh về mặt thủ tục đối với các doanh nghiệp có dự án tốt và có khả năng trả nợ. Cần phải hướng đến mục tiêu hai bên cùng khắc phục để cùng tồn tại.”

Rõ là cầm đèn đi trước ô tô. Các ngân hàng họ biết rõ phải làm gì và thế nào để tồn tại và tối đa hóa lợi nhuận. Cái võ của đồng chí thì đương nhiên ngân hàng nào mà chẳng muốn và cũng đã/đang thực hiện.

Cả lời khuyên này của đồng chí nữa: “Còn các doanh nghiệp cũng cần phải đánh giá lại mình xem đâu là điểm yếu, đâu là điểm mạnh, phải xây dựng chiến lược kinh doanh mới cho phù hợp với diễn biến thị trường... nhằm hướng đến đáp ứng được các điều kiện vay vốn mà ngân hàng thương mại đặt ra. Nếu chưa đáp ứng được các điều kiện đó, thì doanh nghiệp cũng cần phải có những cam kết về mặt thời gian hoàn thành để xây dựng lòng tin cho các ngân hàng.” Nói là trẻ con thì hơi quá đáng, nhưng tớ phải nói trung thực rằng đúng là vậy về bản chất.

Còn đồng chí Thành thì vẫn cái điệp khúc NHNN, với quyền hạn và nghĩa vụ của mình, cần in thật nhiều tiền cho ngân hàng thương mại vay với lãi suất thấp để họ cho doanh nghiệp vay cũng với lãi suất thấp. Thưa đồng chí, nói chơi thì rất dễ. NHNN ắt hẳn đang rất đau đầu về vấn đề này – làm sao tung tiền ra mà không gây lạm phát – đấy. Đồng chí nếu có võ gì mà làm được điều này thì hãy tư vấn cho NHNN, chứ không phải nói khơi khơi, dễ ợt: tung tiền vô hạn định nhưng đồng thời không làm tăng lạm phát.

Đồng chí có đề cập đến chuyện thiếu thanh khoản trong hệ thống ngân hàng. Và đồng chí lý luận rằng vì tăng trưởng tín dụng đến nay mới chỉ hơn 3% trong khi chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm là 15%-17% nên có làm gì đi chăng nữa thì (tăng trưởng tín dụng cả năm nay) cũng không vượt qua được mức này và do đó không tác động đến lạm phát.

Về 2 điểm trên, thứ nhất, xin lưu ý với đồng chí rằng thanh khoản trong hệ thống không phải là thiếu, bằng chứng là NHNN đã phải rút tiền về trên OMO. Vì vậy, một trong những điều kiện cần để NHNN phải cấp tập, ồ ạt in tiền theo lý luận của đồng chí để cứu thanh khoản đã không (còn) tồn tại.

Thứ hai, xin nói rõ với đồng chí rằng chẳng có mối liên hệ nào, cũng như chẳng có ai bảo đảm rằng mức tăng trưởng tín dụng 15%-17% là mức tối ưu, không tác động đến lạm phát, vì vậy mức tăng trưởng thực tế dưới mức này càng không gây ra tác động đến lạm phát, vì thế mà cứ yên tâm in tiền ra sao cho tăng trưởng tín dụng miễn là nhỏ hơn mức này là được. Thật là một lý luận… (tớ lại tự kiểm duyệt).

Rồi nữa, cái đề xuất quỹ bảo lãnh của NHNN cho doanh nghiệp vay. Nó cũng là một cái đề xuất nói thì dễ, nghe thì hay. Hẳn đồng chí còn nhớ cái võ cũng hay ho, hấp dẫn không kém mà từng được dùng, được ca ngợi ở Việt Nam mới mấy năm trước đây – bù/hỗ trợ lãi suất – chứ? Tiêu chí để được hưởng ưu đãi này cũng đầy đủ, chặt chẽ cả đấy chứ? Vậy mà kết quả và kết luận về nó sau này ra sao thì đồng chí chắc cũng đã rõ rồi chứ?

Cuối cùng, về phát biểu của đồng chí Ánh. Cũng tương tự, tớ thấy rõ cái hình ảnh của cầm đèn chạy trước ô tô. Đồng chí khuyên các doanh nghiệp: “Để giải quyết hàng tồn kho, cần phân tích xem sự thích ứng của sản phẩm với nhu cầu của thị trường. Yếu tố thứ hai cần xem xét là giá bán hàng hóa. Doanh nghiệp xây dựng giá bán dựa trên các yếu tố đầu vào và lợi nhuận nhưng trong lúc dư cung, việc xem lại giá bán là cần thiết, thậm chí chấp nhận thua lỗ để bán hàng, lúc đó mới có tiền quay vòng vốn. Đặc biệt với những sản phẩm đang dư cung hoặc đã sắp hết chu kỳ sống, doanh nghiệp càng cần bán hàng để có vốn để ra được sản phẩm mới.” Tớ nghĩ là chẳng cần phải bình luận thêm về lời khuyên này.

Tiếp theo, đồng chí Ánh nêu ra một số con số về mức độ không đáng kể của các biện pháp hỗ trợ của nhà nước thông qua hoãn/miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và GTGT. Nhưng mặt khác, đồng chí lại nhấn mạnh rằng (qua cách hành văn) nếu có làm mạnh tay hơn nữa thì tổng giá trị miễn giảm thuế là không quá lớn (chỉ 60-70 ngàn tỷ mỗi khoản).

Ở đây có 2 điều cần lưu ý. Thứ nhất, lập luận rằng miễn giảm thuế tích cực hơn nữa thì gói miễn giảm thuế cũng không quá lớn sẽ dẫn đến câu hỏi ngược, nếu đã không quá lớn thì liệu việc miễn giảm thuế sẽ có tác dụng như mong muốn? Thứ hai, cứ cho là gói miễn giảm thuế là không quá lớn, nhưng xin nên nhớ rằng mọi khoản hụt thu, tăng chi hiện nay đều tạo thêm gánh nặng nợ nần đã/đang trở nên quá sức chịu đựng của ngân sách, với bằng chứng là ngay việc tăng lương cơ bản (đâu như 10 ngàn tỷ?) mà còn đang dự định phải trông vào việc phát hành trái phiếu.

Tóm lại, nội dung phát biểu của 3 đồng chí trên vừa trẻ…, vừa ngây…, vừa ấm… (tớ lại phải tự kiểm duyệt … nửa vời một phát nữa).

Friday, 23 November 2012

5 nhận xét về Báo cáo tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của tập đoàn, tổng công ty năm 2011 (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=264922

08:47 | 24/11/2012
Báo cáo tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2011; phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2012 – 2015 được Chính phủ gửi tới Quốc hội ít ngày trước phiên bế mạc Kỳ họp thứ Tư. Ngoài những con số thống kê khô khan, có một số thông tin đáng chú ý liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Nợ lẫn nhau, chuyển nợ và cách xử lý
Báo cáo cho biết, Tập đoàn Điện lực (EVN) nợ quá hạn tới hơn 10 nghìn tỷ đồng, trong đó có nợ mua điện của Tập đoàn Dầu khí. Đáng nói là cách xử lý nợ lại như kiểu đà điểu vùi đầu xuống cát, bằng cách chỉ đạo cho khoanh nợ khoản nợ xấu này, mà về thực chất là không cho thể hiện trên sổ sách kế toán của cả 2 bên liên quan để làm đẹp tình hình kinh doanh của chúng, trong khi thực tế nợ xấu vẫn còn đó.
 
Thêm nữa, việc tái cơ cấu Vinashin với những lời hứa hẹn và cam kết tốt đẹp rốt cuộc đã không mang lại kết cục tốt đẹp như thế, với thực tế là Tập đoàn Dầu khí phát sinh khoản nợ quá hạn 1.731 tỷ đồng nhưng là do… nhận bàn giao nợ từ Vinashin! Đây là một biến thể xử lý nợ truyền thống kiểu khác, chuyển nợ từ nơi này sang nơi kia để nợ xấu đỡ gớm ghiếc hơn nhưng nợ xấu vẫn là nợ xấu và vẫn còn nguyên đó.
 
Cố tình quên bài học sơ đẳng về kinh doanh
Báo cáo nhận định: năm 2011 hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty (TĐ, TCT) gặp nhiều khó khăn, phải đối mặt với nhiều rủi ro về tài chính như chi phí lãi vay cao (hầu hết các TĐ, TCT đầu tư dựa trên vốn vay).
 
Một cách làm thường thấy là đổ lỗi cho tình hình hoạt động yếu kém của các DNNN là do các điều kiện bất lợi của thị trường, trong đó có lãi suất cao và khó vay vốn ngân hàng. Nhưng với thực tế được thừa nhận như trên, lỗi nằm ngay ở những người hoạch định chính sách, những người quản lý, điều hành các DNNN khi chủ trương cho các DNNN sản xuất kinh doanh dựa chủ yếu trên vốn vay, và (cố tình) quên rằng kiểu sản xuất kinh doanh này thế nào cũng có ngày sập tiệm. Cũng có thể họ nghĩ rằng vốn cần vay nằm sẵn ở ngân hàng và chỉ cần một sự can thiệp nào đó là có thể vay được và xù được dưới hình thức này hay hình thức khác khi cần.
 
Nhìn nhận hời hợt và mâu thuẫn về DNNN
Báo cáo khẳng định: trong bối cảnh suy giảm kinh tế, lạm phát tăng cao giai đoạn 2010 - 2011, các doanh nghiệp nhà nước đóng góp lớn để xây dựng và phát triển KT - XH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhưng tiếc rằng Báo cáo không nêu những dẫn chứng để chứng minh rằng DNNN “đã đóng góp lớn”, nào là bình ổn giá cả (bình ổn thế nào mà các DNNN thi nhau đòi tăng giá và đã được phép tăng một số thứ?), kiềm chế lạm phát (kiềm chế thế nào mà lạm phát lên tới gần 20% năm 2011?), nào là ổn định kinh tế vĩ mô (ổn định thế nào mà DNNN là một trong những nguồn đóng góp đáng kể nhất vào nhập siêu?) và đảm bảo an sinh xã hội (đảm bảo thế nào mà ngay cả DNNN cũng phải đau đầu với việc giảm biên chế?).
 
Chỉ có một chi tiết trong Báo cáo về sự đóng góp này, nếu có, đó là những con số về nộp ngân sách, năm 2011 tăng 10,1% so với năm 2010. Nhưng lưu ý rằng trong tổng số nộp ngân sách này có đến phân nửa là thuế GTGT và thu nhập doanh nghiệp, là nghĩa vụ bắt buộc phải nộp của mọi doanh nghiệp. Đáng nói hơn là tốc độ tăng trưởng 10,1% này nếu so với tỷ lệ lạm phát gần 20% năm 2011 thực tế là sự thụt lùi. Nói cách khác, đóng góp của DNNN vào ngân sách thực tế giảm đi trong năm 2011.
 
Báo cáo còn có những nhận định mâu thuẫn về hoạt động và vai trò của DNNN. Một mặt, Báo cáo thừa nhận (một cách đúng đắn) rằng: “Hầu hết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa có tốc độ tăng trưởng tốt, hoạt động kinh doanh có hiệu quả”. Điều này có nghĩa là hầu hết các DNNN không tăng trưởng tốt, không hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Mặt khác, trong phần “Ưu điểm”, Báo cáo vẫn đánh giá đầy mâu thuẫn với lời thừa nhận trên rằng: hầu hết các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, đóng góp số thu cho ngân sách nhà nước. Hơn nữa, nếu là tốt như vậy thì cần gì phải đặt ra chủ trương tái cơ cấu và cổ phần hóa DNNN làm gì nữa?
 
Ngay sau đó, trong phần “Những bất cập, khó khăn”, Báo cáo lại tự vạch ra những điểm phủ nhận những đánh giá trên, như năng lực quản trị doanh nghiệp “chưa tương xứng”; chưa có sự phân định đủ rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cấp quản lý nhà nước; sự phân công, phân cấp, giao quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Chính phủ cho Hội đồng thành viên, Ban giám đốc chưa rõ ràng; chưa có chế tài đủ mạnh để yêu cầu, buộc các DNNN thực hiện nghiêm các kiến nghị của các cơ quan quản lý nhà nước; những lỗ hổng trong các quy chế giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động v.v... Với hàng loạt những bất cập, khó khăn thế này, điều dễ hiểu, dễ hình dung là chất lượng hoạt động của các DNNN đã và sẽ ra sao, và điều khó hiểu là tại sao Báo cáo vẫn dành những lời tốt đẹp ca ngợi về vai trò và chất lượng hoạt động của DNNN.
 
Yếu kém luôn có một phần do lỗi khách quan
Phần “Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém”, Báo cáo nêu rằng: “Việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước tiến hành trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều khó khăn, phức tạp. Sau giai đoạn khôi phục kinh tế của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 - 1998; từ năm 2008 đến nay liên tục phải ứng phó với khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu; trong nước lạm phát cao, thị trường tài chính, chứng khoán sụt giảm”. Hình như những người viết Báo cáo quên rằng nếu mọi thứ đều tốt đẹp thì đã không phải, đúng hơn là chẳng ai bận tâm đến sắp xếp với đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN làm gì cả. Chỉ khi nào có những biến động bất lợi trong và ngoài nước thì nhiệm vụ trên mới được đặt ra và coi là đương nhiên, nên cần phải coi những bất lợi này là điều kiện tốt cho nhiệm vụ này, chứ không thể/không nên đổ lỗi cho chúng.
 
Chậm chạp đến khó hiểu
Báo cáo nêu: thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI; Nghị quyết số 42/2009/QH12 ngày 27.11.2009 của Quốc hội về nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, Chính phủ đang chuẩn bị ban hành ngay một số chính sách. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao đã có Nghị quyết của đảng và Quốc hội ngay từ năm 2009 mà đến hơn 3 năm sau, Chính phủ mới “đang chuẩn bị ban hành”, mặc dù có thêm từ “ngay”, một số chính sách? Một loạt câu hỏi tiếp theo về ai, thế nào... là tất yếu sau câu hỏi này.

Thursday, 22 November 2012

Thật mừng là đã có một vài người lên tiếng về phát biểu của đồng chí Bình

Trong entry trước tớ phải chán ngán thốt lên là không thấy có một ai, một chuyên gia nào lên tiếng về cái phát biểu đầy tính… ngộ chữ của đồng chí Bình về bộ ba bất khả thi.

Nay quả thật mừng vì cho đến giờ ít ra cũng có 3 người khác lên tiếng về cùng chủ đề. 3 người này là đồng chí Nguyễn Trí Dũng, Phạm Đỗ Chí, và Hiệu Minh. Trong số này, đồng chí Hiệu Minh có bài viết (trên Dân Luận) mạch lạc, rõ ràng nhất. Tớ copy cái link ở đây để bạn đọc nào chưa đọc thì vào đọc và mừng với tớ là ít ra xã hội còn nhiều người không bị ngộ chữ như đồng chí Bình.

Saturday, 17 November 2012

Tiền đi đâu? Và hệ lụy của nó (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

 
08:47 | 17/11/2012
Việc cần làm hiện nay là giảm thiểu việc phát hành trái phiếu Chính phủ để tín dụng cho nền kinh tế có điều kiện tăng tốc. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh lạm phát có nguy cơ tăng mạnh trở lại, buộc Ngân hàng Nhà nước phải giới hạn việc tiếp tục tăng cung tiền trong thời gian tới.
Trong phiên chất vấn tại Quốc hội vừa qua, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình cung cấp một thông tin rất có ý nghĩa, liên quan đến tăng trưởng tín dụng. Theo Thống đốc thì lý do tăng trưởng tín dụng thấp (tính đến ngày 30.6, tín dụng chỉ tăng khoảng 3,36% so với cuối năm 2011; trước đó, báo chí đưa tin tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 9 mới đạt 2,35%) là do các ngân hàng đã mua vào tới 183 nghìn tỷ giá trị trái phiếu Chính phủ. Con số này tương đương với khoảng 7% của tổng dư nợ tín dụng tính đến cuối năm 2011.
 
Thông tin trên rất có ý nghĩa vì nó giải thích được cho điều được coi là bí ẩn: tiền đi đâu? Người ta buộc phải hỏi câu này khi cung tiền (còn được gọi là tổng phương tiện thanh toán, M2) tính đến tháng 9 năm nay đã tăng 10,37% so với cuối năm 2011, trong khi tín dụng cho nền kinh tế chỉ tăng rất khiêm tốn như đã nói. Trước đó, một số chuyên gia đã giải thích một cách khiên cưỡng và thiếu logic rằng, tiền đã được các ông chủ ngân hàng đổ vào các doanh nghiệp sân sau của mình; hoặc các ngân hàng với nỗi lo nợ xấu gia tăng nên đã giữ tiền lại, không cho vay ra nền kinh tế nữa. Nay với giải thích của Thống đốc, chuyện tiền đi đâu đã có câu trả lời xác thực.
 
Điều đáng nói hơn là nơi đến của lượng tiền mới cung ra này. Theo đó, có đến hơn 2/3 lượng tiền mới cung ra đã chảy vào trái phiếu, phục vụ cho nhu cầu đầu tư công. Tất nhiên, có những lý do để lý giải tại sao trái phiếu lại hấp dẫn các ngân hàng đến vậy, thay vì cho vay doanh nghiệp và cá nhân như thông thường phải thế (ví dụ, trái phiếu tuy có lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay nhưng an toàn hơn, đặc biệt trong bối cảnh nợ xấu cao và tăng nhanh như hiện nay; với kỳ hạn trên 1 năm và với kỳ vọng lạm phát thấp hơn trong các năm tới thì lãi suất trái phiếu như hiện tại vẫn rất hấp dẫn v.v…).
 
Nhưng dù vì lý do gì thì thực tế này đã cho thấy đầu tư công đang bóp nghẹt đầu tư tư nhân. NHNN tăng cung tiền với kỳ vọng lượng tiền tăng thêm đó sẽ chảy qua các ngân hàng để đi đến các doanh nghiệp và cá nhân dưới dạng tín dụng, nhờ đó sản xuất kinh doanh được duy trì và thúc đẩy. Nhưng với việc Chính phủ mạnh tay huy động vốn thông qua trái phiếu với lãi suất hấp dẫn, tiền thay vì đến doanh nghiệp và cá nhân lại chảy vào ngân sách. Tất nhiên, cuối cùng thì lượng tiền tăng thêm này cũng sẽ chảy vào nền kinh tế thông qua chi tiêu của Chính phủ, các dự án sử dụng ngân sách, và các doanh nghiệp nhà nước được cấp phát vốn ngân sách v.v… Nhưng điều đáng nói là đầu tư công thường gắn liền với hiệu quả thấp so với đầu tư tư nhân. Vì thế, cùng một lượng vốn đầu tư, tổng lợi ích mang lại cho xã hội sẽ nhỏ hơn ở đầu tư công và lớn hơn ở đầu tư tư nhân.
 
Sự chèn lấn của đầu tư công còn gây ra một tác hại khác nữa là khu vực tư nhân sẽ bị co lại, phá sản một phần, từ đó không chỉ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế (khu vực tư nhân thường là động lực cho tăng trưởng kinh tế ở các nước) mà còn làm giảm số việc làm vì khu vực tư nhân là nơi tạo ra nhiều việc làm hơn.
 
Bởi vậy, sẽ hoàn toàn không có gì đáng phải vui mừng như Thống đốc đã “vui mừng” nói rằng “sau nhiều năm chúng ta không thể phát hành được trái phiếu thì năm nay chúng ta phát hành thành công trái phiếu và phát hành với khối lượng lớn”. Ngược lại, cần phải coi việc có đến hơn 2/3 lượng tiền cung ứng mới từ NHNN chảy vào ngân sách là một thất bại chính sách vì đã để trái phiếu Chính phủ bóp nghẹt tín dụng doanh nghiệp/tư nhân.
 
Cũng sẽ có người lập luận rằng trong hoàn cảnh nợ xấu gia tăng thì các ngân hàng không biết đầu tư vào đâu hơn là trái phiếu nên dù không có trái phiếu thì tín dụng sẽ không tăng đáng kể được. Thực tế sẽ không như vậy vì với thanh khoản dồi dào hơn và lãi suất (cho vay của NHNN) thấp hơn thì tín dụng cho doanh nghiệp và cá nhân chắc chắn sẽ tăng lên với lãi suất hạ đi một cách tương đối, tuy có thể không đến mức như kỳ vọng, và đây chính là mục tiêu của chính sách nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế của NHNN.
 
Do đó, việc cần làm hiện nay là giảm thiểu việc phát hành trái phiếu Chính phủ để tín dụng cho nền kinh tế có điều kiện tăng tốc. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh lạm phát có nguy cơ tăng mạnh trở lại, buộc NHNN phải giới hạn việc tiếp tục tăng cung tiền
trong thời gian tới.

Friday, 16 November 2012

Đồng chí Bình khoe chữ nhưng lại bị… ngộ chữ!

Đồng chí Bình NHNN phân bua trên báo Giáo dục Việt Nam về nội dung trả lời chất vấn  có đoạn nói về bộ ba bất khả thi và nửa giải Nobel như thế này: “Còn về giải Nobel thì đó cũng chỉ là một cách nói ví von. Bởi vì trên thế giới, người nghĩ ra bộ ba bất khả thi (tăng trưởng, lạm phát, tỷ giá) thì người ta được giải Nobel rồi. Bây giờ Quốc hội giao cho tôi 3 cái đó không bớt khả thi thì chắc là phải thêm một cái giải Nobel nữa nhưng rất khó và tôi không thể làm được. Và nếu tôi có làm được thì cũng chỉ dám nhận một nửa giải Nobel.  Thực tế thì làm gì có nửa giải Nobel. Và câu nói đó của tôi nói với Chủ tịch Quốc hội để thấy rằng việc đó rất khó, không thể làm được và có làm thì chỉ có thể ở một mức độ nào đó chấp nhận được. Cách thức nói như thế để khẳng định rằng thế giới còn thấy là khó nữa là mình”.    

Tớ phải nói luôn là đồng chí Bình “nghe hơi nồi chõ” ở đâu đó được cái khái niệm “bộ ba bất khả thi”, chẳng hiểu mô tê gì sất và nhớ theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” nên nói bừa đó là bộ ba giữa tăng trưởng, lạm phát và tỷ giá. Tớ cứ đợi mãi xem có ai lên tiếng phê phán, chỉ ra cái lỗi ngớ ngẩn của đồng chí Bình không mà rốt cuộc chẳng có một ai cả, không một chuyên gia nào cả! Mọi người chỉ tập trung vào cái cách nói của đồng chí Bình. Chán!
Thực tế, đó là bộ ba giữa chính sách tiền tệ độc lập, tỷ giá hối đoái cố định, và tự do lưu chuyển vốn. Còn cái ông “nghĩ ra bộ ba bất khả thi” này mà đồng chí Bình nói đến chắc là GS Robert Mundell, nhưng cái ông Mundell này được giải Nobel hình như cũng chẳng phải là vì “nghĩ ra bộ ba bất khả thi” này, mà chỉ là một trong số những người am hiểu về nó nhất thôi. Về vấn đề này tớ đã viết một bài trên báo Đại biểu Nhân dân từ lâu lắm rồi (chính xác là đăng ngày 29/6/2007, link ở đây), mời các đồng chí bạn đọc ghé xem để thấy cái tầm cũng xứng một góc to tướng của cái giải Nobel của tớ nhé! Các đồng chí đừng có băn khoăn, tìm cách phang tớ về chuyện này nhé!

Lại nói về câu nói của đồng chí Bình. Với bộ ba tăng trưởng, lạm phát và tỷ giá (theo cách hiểu của đồng chí Bình), nó vẫn có thể là bộ ba khả thi. Bằng chứng ư? Chẳng cần nói lôi thôi, cứ lôi ngay ví dụ về nền kinh tế Trung Quốc, đã tăng trưởng mạnh trong suốt hơn 3 thập kỷ qua với tỷ giá cứng nhắc (gần như cố định) và lãi suất/lạm phát thì hầu như hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát và theo ý muốn của NHTƯ. Nói vậy để thấy cái dốt, cái liều của người nói.
Nói thêm, bài trên Đại biểu Nhân dân nói trên chính ra là để “phang” bài viết của đồng chí Huỳnh Thế Du của cái trường Fulbright gì gì đó ở Sài Gòn đăng trên TBKTSG cũng về bộ ba bất khả thi mà theo đó đồng chí Du lập luận (đúng hơn, vẹt một cách máy móc) là luôn bất khả thi (vì vậy tiêu đề của bài mới được tớ đặt như vậy).

Saturday, 3 November 2012

Nên chất vấn Ngân hàng Nhà nước về quản lý thị trường vàng như thế nào? (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, đã biên tập)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=262911

08:47 | 03/11/2012

Trong phiên chất vấn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình sắp tới đây tại Quốc hội, một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay là việc quản lý thị trường vàng của NHNN chắc chắn sẽ được nêu ra. Bài viết này phân tích và gợi ý một số điểm cần chất vấn và tranh luận với NHNN nhằm buộc họ có các biện pháp quản lý thị trường vàng ở Việt Nam đúng đắn và hữu hiệu hơn.
Câu chất vấn đầu tiên cần phải là NHNN quan niệm thế nào là “vàng hóa”. Điều này rất quan trọng vì nếu hiểu sai ngay từ khái niệm thì sẽ dẫn theo những hành động sai.

Theo giải trình hôm 3/10 của Thống đốc tại Quốc hội thì: “Trong thời gian qua, do bất ổn của kinh tế thế giới và bất ổn của kinh tế trong nước, giá vàng thế giới đã tăng cao và giá vàng trong nước có nhiều biến động thất thường. Như vậy, tình trạng vàng hóa của nền kinh tế đã được đẩy lên rất cao”.  Theo cách lý giải này, hóa ra vàng hóa là tình trạng giá vàng trong nước có nhiều biến động thất thường. Nếu thế thì sai. Vì vàng hóa chỉ tình trạng vàng đã thay thế cho VND ở một mức độ nào đó trong cả 3 vai trò (thanh toán, đo lường giá trị, và lưu giữ giá trị). Tình trạng vàng hóa càng nặng nề nếu mức độ thay thế VND ở cả 3 vai trò này càng lớn, chứ tình trạng vàng hóa chẳng có liên quan trực tiếp gì đến biến động giá vàng trong và ngoài nước cả.
Tuy Thống đốc có nói tiếp: “Theo đánh giá không chính thức sơ bộ ban đầu, trong nền kinh tế của nước ta có khoảng từ 300 - 400 tấn vàng, hay nói một cách khác là có một nguồn lực cỡ khoảng từ 15 - 20 tỷ USD không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh và bị chôn chặt vào vàng. Hơn nữa, mỗi khi giá vàng có biến động đã làm ảnh hưởng đến tỷ giá thông qua hoạt động nhập khẩu lậu vàng gây nên ảnh hưởng đến hoạt động xuất, nhập khẩu và gián tiếp làm cho lạm phát tăng cao trong những năm qua và tạo ra sự bất ổn của kinh tế vĩ mô”, nhưng câu giải thích này cũng không có liên quan trực tiếp gì đến chuyện vàng hóa cả, nếu cứ theo lý giải bên trên. Cũng có thể, ý của Thống đốc ở đây muốn nhấn mạnh rằng lượng vàng trong dân là đã lớn đến mức mỗi khi có biến động mạnh về giá sẽ gây ra ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô thông qua hoạt động nhập lậu vàng. Nếu vậy thì việc cần làm là thắt chặt nhập (lậu) vàng chứ không phải là làm giảm bớt/thiểu lượng vàng nắm giữ trong dân.

Thống đốc còn sai khi cho rằng 15-20 tỷ đôla giá trị vàng trong dân không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Cần khẳng định ngay không phải tất cả số vàng trên được đem cất vào két, để dưới chiếu, mà chắc chắn rằng một phần không nhỏ trong chúng đã và đang được mang ra cho vay mượn/mua bán, để đổi lấy vốn sản xuất kinh doanh, tất nhiên là thông qua các giao dịch nằm ngoài hệ thống ngân hàng (khi ngân hàng bị cấm huy động/cho vay bằng/mua bán vàng). Nói cách khác, một số lượng vàng trong dân đã và đang thực hiện các chức năng của nó trong sản xuất, kinh doanh chứ không như khẳng định của NHNN.
Cũng chắc chắn rằng một phần không nhỏ trong số trên tuy “chôn” ở đâu đó, ngoài sản xuất, kinh doanh, nhưng đây là điều tất yếu vì vàng còn được dùng làm đồ trang sức, và đồ trang sức thì đương nhiên phải nằm ngoài sản xuất, kinh doanh. Như vậy, con số vàng thực tế cần phải “huy động” trong dân không đến mức 15-20 tỷ đôla như nói trên để người ta phải hoảng sợ đến mức mà tìm mọi cách hạn chế dân giữ vàng. Ngoài ra, sở hữu/trao đổi/mua bán vàng (dùng làm) trang sức là điều không thể/nên cấm đoán được, vì đây là những nhu cầu cũng thiết yếu tương tự như với quần áo, và vì thế càng làm giảm tính cấp thiết phải ngăn chặn việc nắm giữ vàng trong dân.

Thêm nữa, hình như ông Bình quên một thực tế rằng lạm phát mới làm cho tình trạng tích trữ vàng (tức một dạng thức của vàng hóa) tăng lên khi người ta sợ tài sản của mình bằng VND bốc hơi theo lạm phát, chứ không phải ngược lại, vàng hóa gây ra lạm phát, kể cả có là gián tiếp nếu NHNN không bất cẩn với chính sách tiền tệ của mình.
Chính vì sai lầm ngay từ khái niệm nên NHNN mới có những động thái khá kỳ quặc như bình ổn giá vàng và độc quyền nhãn hiệu vàng SJC. Có lẽ NHNN chưa nhận thức được rằng để chống vàng hóa thì không có giải pháp nào khác căn bản, hữu hiệu và bền vững hơn là giải pháp tăng uy tín cho và niềm tin vào VND để người dân tự nguyện nắm giữ VND thay cho vàng trong lãnh thổ Việt Nam.

Thống đốc có lấy những ví dụ như không còn thấy người dân đổ xô đi mua vàng, mặc dù giá vàng biến động lớn nhưng tỷ giá vẫn ổn định, hệ thống ngân hàng đã mua được 60 tấn vàng v.v... để nhấn mạnh rằng các giải pháp chống vàng hóa đã phát huy tác dụng mà bỏ qua nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác. Người dân không còn đổ xô đi mua vàng nữa có thể đơn giản vì giá vàng trong nước đã trở nên quá cao so với giá quốc tế nên người ta không dám mua vào vì sợ rủi ro kép – (i) giá vàng quốc tế quay đầu, và (ii) mức chênh lệch quá lớn đến mức phi lý giữa giá vàng trong nước và quốc tế sẽ thu hẹp lại một thời điểm nào đó vì không thể ở mức phi lý mãi như vậy được. Hoặc có một lý do đơn giản hơn nữa, tài sản khả dụng của người dân hiện nay so với cách đây 2, 3 năm giảm đi nhiều vì sự đi xuống của bất động sản làm cho số vốn khả dụng có thể dùng để mua vàng không còn nhiều nữa, làm cho dòng người xếp hàng mua vàng vì thế cũng giảm mạnh (so với trước đây), gây ra ngộ nhận của NHNN rằng vàng hóa đã được kiềm chế (mà thực chất vàng trong dân vẫn còn từng đó, như nói thêm dưới đây).
Còn chuyện mặc dù giá vàng biến động mạnh nhưng tỷ giá vẫn ổn định có thể chẳng có gì liên quan đến câu chuyện chống vàng hóa thành công mà NHNN đang gán ghép cả. Tỷ giá ổn định có thể đơn giản vì nguồn cung ngoại tệ vẫn tăng lên trong khi cầu ngoại tệ (nhất là từ nhập khẩu) sút giảm. Tương tự, chuyện ngân hàng mua vào 60 tấn vàng cũng nên coi là việc bình thường khi trước đây họ đã huy động rồi bán ra một khối lượng (còn lớn hơn) từng đấy, nay phải tích cực mua vào để sẵn sàng hoàn trả cho người gửi vàng khi họ đến rút ra khi đáo hạn; và rốt cuộc lượng vàng trong dân vẫn không thay đổi, và cũng có nghĩa là tình trạng vàng hóa không thay đổi.

Tóm lại, khi chất vấn Thống đốc về các giải pháp quảnlý thị trường vàng, các đại biểu cần yêu cầu ông Bình làm rõ khái niệm, mục đích và cách thức xử lý giá vàng, quản lý thị trường vàng trong mối liên quan đến vàng hóa để từ đó vạch ra những sai lầm trong cách hiểu và hành động của NHNN như hiện tại vốn góp phần không nhỏ gây ra những rối ren không đáng có trên thị trường vàng. Trên cơ sở chất vấn vạch ra những cái sai như vậy, các đại biểu nên yêu cầu NHNN phải sửa đổi, rút lại các biện pháp quản lý thị trường vàng cũ, thi hành các biện pháp mới chống vàng hóa một cách đúng đắn và hữu hiệu.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).