Việt Nam đang đàm phán FTA với khối Liên minh hải quan Nga, Belarus, Kazakhstan (LMHQ) và kỳ vọng có thể kết thúc đàm phán vào cuối năm nay.
Nhìn chung, FTA với khối LMHQ hứa hẹn đem lại nhiều cơ hội to lớn cho xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường khá nhiều tiềm năng này. Nhưng trên thực tế sẽ có nhiều rào cản phi thương mại làm cản trở đáng kể đến sự tiếp cận của hàng hóa Việt Nam vào thị trường này nếu những Hiệp định FTA ký kết với khối này không có những điều khoản buộc phía LMHQ phải loại bỏ hoặc hạn chế các rào cản phi thương mại này.
Rào cản tiếp cận thị trường đầu tiên phải kể đến là việc định giá hải quan, thủ tục thông quan, chứng nhận và các tiêu chuẩn kỹ thuật.
Sự phân loại mã hải quan không được áp dụng một cách nhất quán bởi Hải quan khối này, và các thuật ngữ mà Hải quan khối này dùng với các nhà nhập khẩu vào khối cũng không được giải thích một cách rõ ràng. Giá tham chiếu để áp thuế có thể biến thiên mạnh tùy thuộc nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm và thường bị tăng lên mà không được báo trước. Hàng hóa ký gửi với giá thấp hơn giá thị trường sẽ thường bị ách lại tại biên giới để thanh kiểm tra. Hơn thế, thông quan cho những hàng hóa có giá trị sẽ được ưu tiên, trong khi đó thông quan cho những hàng hóa khác thường sẽ bị chậm chễ.
Rào cản tiếp theo là các Chứng nhận GOST (chứng nhận tiêu chuẩn nhà nước), Giấy phép vệ sinh, hay các Bản cam đoan hợp quy (DOC). Các loại giấy tờ này sẽ được yêu cầu cho phần lớn các hàng hóa tiêu dùng được nhập khẩu vào và phân phối trong khối. Quy trình và thủ tục để xin được những loại giấy tờ này ngày càng dài ra và rắc rối. Mẫu hàng hóa cũng phải được cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, phân tích, và đây sẽ là vấn đề với những loại hàng hóa có giá trị.
Rào cản tiếp cận thị trường đầu tiên phải kể đến là việc định giá hải quan, thủ tục thông quan, chứng nhận và các tiêu chuẩn kỹ thuật.
Sự phân loại mã hải quan không được áp dụng một cách nhất quán bởi Hải quan khối này, và các thuật ngữ mà Hải quan khối này dùng với các nhà nhập khẩu vào khối cũng không được giải thích một cách rõ ràng. Giá tham chiếu để áp thuế có thể biến thiên mạnh tùy thuộc nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm và thường bị tăng lên mà không được báo trước. Hàng hóa ký gửi với giá thấp hơn giá thị trường sẽ thường bị ách lại tại biên giới để thanh kiểm tra. Hơn thế, thông quan cho những hàng hóa có giá trị sẽ được ưu tiên, trong khi đó thông quan cho những hàng hóa khác thường sẽ bị chậm chễ.
Rào cản tiếp theo là các Chứng nhận GOST (chứng nhận tiêu chuẩn nhà nước), Giấy phép vệ sinh, hay các Bản cam đoan hợp quy (DOC). Các loại giấy tờ này sẽ được yêu cầu cho phần lớn các hàng hóa tiêu dùng được nhập khẩu vào và phân phối trong khối. Quy trình và thủ tục để xin được những loại giấy tờ này ngày càng dài ra và rắc rối. Mẫu hàng hóa cũng phải được cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, phân tích, và đây sẽ là vấn đề với những loại hàng hóa có giá trị.
Để xin được giấy phép bán lẻ và nhập khẩu, người nước ngoài sẽ phải nộp các dữ liệu mật gồm thông tin về cơ sở sản xuất của nhà thầu phụ. Những quy định liên quan thường là không rõ ràng và thay đổi mà không được thông báo trước, tạo ra bất trắc về hiệu lực của các giấy phép này. Những sản phẩm đặc thù lại cần phải có thêm một số loại giấy chứng nhận khác.
Chẳng hạn rơm, cỏ tranh, các sản phẩm trang trí có nguồn gốc tự nhiên như hoa, lá khô, song mây, hoặc các loại sản phẩm gỗ không qua xử lý cần phải có chứng nhận kiểm dịch thực vật do chính quyền sở tại nơi nhập khẩu cấp. Những sản phẩm như thảm, rèm hay đèn chiếu sáng cần phải có Chứng nhận phòng cháy hay các bản Cam đoan không cháy. Các sản phẩm sol khí thì lại cần chứng nhận không phá hủy Ozone.
Cũng cần biết thêm rằng không có các thông tin rõ ràng và có thể đoán định trước được về các loại chứng nhận cần để nhập khẩu các hàng hóa tiêu dùng. Chỉ một số điểm hải quan có thể cung cấp chứng nhận kiểm dịch thực vật, và đây được coi là trở ngại lớn đối với thông quan nhập khẩu.
Tóm lại, khi đàm phán với LMHQ, Việt Nam cần phải đặc biệt chú trọng khai thông các rào cản phi thương mại, bao gồm thủ tục thông quan rắc rối và tốn thời gian, việc định giá tính thuế không rõ ràng, sự cấp phép và các quy định kỹ thuật phiền toái, nặng nề. Trên thực tế, thường đây mới chính là những rào cản lớn nhất hạn chế sự thâm nhập của hàng hóa Việt Nam vào thị trường này, chứ không hẳn chỉ là hàng rào thuế quan cao khi chưa có FTA.
Chẳng hạn rơm, cỏ tranh, các sản phẩm trang trí có nguồn gốc tự nhiên như hoa, lá khô, song mây, hoặc các loại sản phẩm gỗ không qua xử lý cần phải có chứng nhận kiểm dịch thực vật do chính quyền sở tại nơi nhập khẩu cấp. Những sản phẩm như thảm, rèm hay đèn chiếu sáng cần phải có Chứng nhận phòng cháy hay các bản Cam đoan không cháy. Các sản phẩm sol khí thì lại cần chứng nhận không phá hủy Ozone.
Cũng cần biết thêm rằng không có các thông tin rõ ràng và có thể đoán định trước được về các loại chứng nhận cần để nhập khẩu các hàng hóa tiêu dùng. Chỉ một số điểm hải quan có thể cung cấp chứng nhận kiểm dịch thực vật, và đây được coi là trở ngại lớn đối với thông quan nhập khẩu.
Tóm lại, khi đàm phán với LMHQ, Việt Nam cần phải đặc biệt chú trọng khai thông các rào cản phi thương mại, bao gồm thủ tục thông quan rắc rối và tốn thời gian, việc định giá tính thuế không rõ ràng, sự cấp phép và các quy định kỹ thuật phiền toái, nặng nề. Trên thực tế, thường đây mới chính là những rào cản lớn nhất hạn chế sự thâm nhập của hàng hóa Việt Nam vào thị trường này, chứ không hẳn chỉ là hàng rào thuế quan cao khi chưa có FTA.
No comments:
Post a Comment