Tuesday, 10 March 2015

Hạ lãi suất là trách nhiệm của ai và như thế nào? (Bài đăng trên CafeF, 10/3)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/ha-lai-suat-la-trach-nhiem-cua-ai-va-nhu-the-nao-20150310155436225.chn
 
Mới đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã công bố kế hoạch tiền tệ cho năm 2015. Một trong những điều thu hút được sự quan tâm nhiều nhất của dư luận là chuyện NHNN có kế hoạch giảm tiếp mặt bằng lãi suất cho vay trung, dài hạn từ 1 - 1,5 điểm %/năm. Xung quanh định hướng này có 3 vấn đề đáng nói.

Vấn đề đáng nói đầu tiên là dường như việc giảm lãi suất này lại được cho là trách nhiệm của và phụ thuộc vào ý chí của các ngân hàng thương mại (NHTM), là quả bóng nằm trong chân các NHTM này. Cần phải khẳng định luôn rằng điều hành lãi suất như thế nào và muốn mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế ở mức bao nhiêu v.v... luôn là trách nhiệm và cũng là quyền năng của NHNN với tư cách là một ngân hàng trung ương.

Cụ thể, khi NHNN nhận thấy rằng lãi suất trong nền kinh tế đang ở mức cao quá mức, gây tổn hại cho tăng trưởng kinh tế và việc làm do nhiều chủ thể kinh tế bị lãi suất đi vay cao làm cho nản lòng, không muốn vay mượn để chi cho tiêu dùng và đầu tư nữa, điều NHNN có thể làm là nới lỏng chính sách tiền tệ, tức là bơm thêm tiền vào nền kinh tế, với hy vọng lãi suất đến tay người đi vay sẽ giảm đi theo mong muốn của NHNN. Tất nhiên, để quyết định mức bơm tiền thêm vào nền kinh tế là bao nhiêu và trong bao lâu sẽ là phù hợp, NHNN phải xem xét và cân nhắc một loạt các chỉ số vĩ mô như tăng trưởng GDP hiện tại, tăng trưởng GDP tiềm năng, lạm phát hiện tại, (chính sách) tỷ giá, cán cân thương mại và vốn, cũng như mức độ hấp thu vốn của nền kinh tế v.v...

Việc cân nhắc những chỉ số vĩ mô trên là điều thiết yếu để có được một chính sách lãi suất phù hợp với các biến số kinh tế vĩ mô khác trong khuôn khổ một chính sách phát triển kinh tế tổng thể của đất nước trong từng thời kỳ. Để cho dễ hình dung, hãy xem 2 ví dụ sau.

Ví dụ thứ nhất. Giả sử lạm phát ở Việt Nam vẫn đang ở mức cao so với mức trung bình của khu vực và thế giới, trong khi tăng trưởng GDP đã tiệm cận với hoặc vượt mức tăng trưởng GDP tiềm năng. Lúc này, vì NHNN cho rằng (hoặc do bị áp lực từ dư luận buộc phải tin rằng) mặt bằng lãi suất cho vay ở Việt Nam quá cao so với khu vực và thế giới (lưu ý, đây là điều hiển nhiên, và là hậu quả tất yếu của lạm phát cao), nên NHNN lại bơm mạnh cung tiền để hạ lãi suất thì việc hạ lãi suất sẽ hun nóng thêm nền kinh tế, và chủ yếu dẫn đến các cơn sốt về bất động sản, vàng và chứng khoán và làm lạm phát gia tăng mạnh hơn nữa, trong khi tăng trưởng GDP hầu như không tăng thêm vì đã tiệm cận hoặc vượt quá tăng trưởng GDP tiềm năng.

Ví dụ thứ hai. Với định hướng chính sách tỷ giá ổ định trong cả thời gian dài tính bằng năm để khôi phục lòng tin vào tiền đồng, nếu NHNN lại nới lỏng chính sách tiền tệ để hạ lãi suất thì việc này vô hình trung lại gây ra tác động phá vỡ sự ổn định của tỷ giá mà NHNN mong muốn và đang nỗ lực thực hiện, do VND trở nên kém hấp dẫn hơn so với USD và xui khiến người có tiền chuyển sang nắm giữ USD thay vì VND.

Qua 2 ví dụ để thấy lạm phát chỉ là một trong nhiều yếu tố quan trọng để (NHNN) xem xét liệu có nên hạ lãi suất nữa hay không. Xét trên ý nghĩa này, sẽ là sai lầm và phiến diện khi NHNN tuyên bố “điều chỉnh (lãi suất) theo diễn biến CPI”, mà quên đi diễn biến và sự ràng buộc của các biến số vĩ mô khác như trong 2 ví dụ trên. Bởi vậy, cho dù hiện nay CPI vẫn đang theo xu hướng giảm nhưng không thể chỉ vì thế mà NHNN lại nới lỏng thêm chính sách tiền tệ để hạ lãi suất. Hậu quả nhãn tiền có thể nhìn thấy trước nếu NHNN nới lỏng tiền tệ để hạ lãi suất vào thời điểm này sẽ là việc nó phải chấp nhận để VND bị mất giá mạnh hơn mức 1%-2% trong cả năm nay mà nó đã tuyên bố. Và cũng bởi những lý do như thế này nên sẽ không ngạc nhiên khi NHNN vẫn phải tiếp tục thận trọng với nới lỏng chính sách tiền tệ mặc dù tuyên bố sẽ giảm lãi suất cho vay trung và dài hạn.

Vấn đề đáng nói thứ hai liên quan đến sự sai biệt kỳ hạn giữa vốn huy động và cho vay ở các NHTM. Người ta cho rằng nếu NHNN tăng cung tiền vào nền kinh tế thì thường đây là vốn ngắn hạn (ví dụ, thông qua cho vay tái chiết khấu với kỳ hạn ngắn). Bởi vậy, dù cung tiền có tăng lên và chảy vào hệ thống ngân hàng thì các NHTM cũng chỉ có thêm một nguồn vốn chủ yếu là ngắn hạn mà thôi. Cộng thêm với thực tế là vốn huy động từ tiền gửi tại các NHTM cũng có một tỷ trọng áp đảo là tiền gửi ngắn hạn, nên cho dù có hạ lãi suất huy động để làm tiền đề hạ lãi suất cho vay trung và dài hạn thì các NHTM cũng không thể có đủ nguồn vốn cho việc này, làm cho lãi suất cho vay trung và dài hạn khó mà giảm đi được.

Nhưng tình hình sẽ không xảy ra đúng như trên nếu, thay vì tăng cung tiền và bơm thanh khoản trong ngắn hạn, NHNN tuyên bố sẽ hành động theo một kịch bản tương tự, ví dụ như Chương trình nới lỏng định lượng của Ngân hàng dự trữ Liên bang Mỹ (FED), theo đó gia tăng cung tiền sẽ được duy trì trong thời hạn kéo dài hàng năm. Lúc này, các khoản vốn của NHNN cấp cho nền kinh tế mang tính trung và dài hạn, tạo điều kiện để các NHTM có được nguồn vốn cho vay mang tính trung và dài hạn với lãi suất thấp. Người gửi tiền, với kỳ vọng lãi suất không chỉ ngắn hạn mà cả trung và dài hạn sẽ ổn định theo hướng bị hạ thấp dần đi, sẽ có xu hướng chọn kỳ hạn trung và dài hạn hơn ngay từ bây giờ để được hưởng lãi suất hấp dẫn hơn so với gửi ở thời điểm sau này.

Tất nhiên, cần lặp lại rằng NHNN có nên thực thi những chính sách nới lỏng kiểu này hay không vẫn phải phụ thuộc vào nhiều biến số vĩ mô như nêu ở bên trên. Nhưng thông điệp ở đây là sự chênh lệch kỳ hạn huy động và cho vay vẫn có thể khắc phục được nếu NHNN thực sự mong muốn (và có thể) hạ lãi suất cho vay trung và dài hạn. Nói ngược lại, nếu NHNN không có động thái hỗ trợ gì về nguồn vốn và lãi suất thì không thể yêu cầu lãi suất cho vay trung và dài hạn giảm đi được.

Vấn đề đáng nói thứ ba về định hướng hạ lãi suất trung và dài hạn của NHNN là phản ứng của các NHTM trước mỗi hành động chính sách của NHNN. Cứ như quan niệm hiện nay của nhiều người thì NHTM có trách nhiệm và nghĩa vụ tuân thủ đúng theo định hướng của NHNN. Nói cách khác, họ cho rằng nếu NHNN ra định hướng từ đầu năm nay rằng sẽ giảm lãi suất cho vay trung và dài hạn thì có nghĩa là các NHTM phải phấn đấu và nỗ lực giảm lãi suất cho vay trung và dài hạn của mình. Nếu không làm được như vậy thì các NHTM sẽ bị buộc tội là không tuân thủ định hướng của NHNN, không có trách nhiệm, không có thiện chí, hoặc vô cảm với nền kinh tế và xã hội v.v...

Trên thực tế, NHTM chỉ nên và phải hành động theo những tín hiệu thị trường, một phần do NHNN tạo ra. Nếu NHNN muốn hạ lãi suất thì nó phải chủ động thực hiện việc này bằng quyền năng và những công cụ chính sách hữu hiệu của mình, chứ không phải bằng cách yêu cầu, bắt buộc, hay “vận động”, thuyết phục các NHTM phải hạ lãi suất cho vay của chúng. Nếu gặp hoàn cảnh thuận lợi và “đầy thiện chí”, chẳng hạn như khi NHNN tăng cung vốn trung và dài hạn với lãi suất thấp, thì các NHTM cũng có thể hạ lãi suất cho vay của mình. Trong bối cảnh thuận lợi như vậy, nếu có NHTM nào đó không chịu hạ lãi suất cho vay thì nó sẽ tự động bị thị trường cạnh tranh tự do đào thải, do các NHTM khác sẵn sàng hạ lãi suất cho vay.

Nếu vì một lý do nào đó mà các NHTM miễn cưỡng, hoặc không thể hạ lãi suất cho vay được kể cả khi bị NHNN yêu cầu, bắt buộc, hay “vận động”, thì phải hiểu rằng đó không hẳn là chúng không có thiện chí, hoặc “không tuân lệnh” của NHNN. Có nhiều lý do cho việc các NHTM không hạ lãi suất cho vay được, ví dụ như NHNN không cung cấp đủ nguồn vốn cho vay trung và dài hạn (với lãi suất thấp), NHTM đang bị “vướng” nợ xấu và, do đó, cần một nguồn vốn đáng kể giữ lại (không cho vay) để xử lý nợ xấu v.v... Vì thế, không thể chỉ căn cứ vào hiện tượng, ví dụ, trong khi tiền gửi trong hệ thống ngân hàng tăng 16,31% năm 2014 thì cho vay ra chỉ tăng trên 14%, để kết luận rằng hệ thống ngân hàng đang ứ đọng, dư thừa thanh khoản, nhưng  các NHTM không thiện chí, không chịu hạ lãi suất cho vay nói chung và cho vay trung, dài hạn nói riêng.

Nói tóm lại, trong cả 3 vấn đề nêu ra bên trên ta đều thấy vai trò quyết định của NHNN trong việc hạ lãi suất cho vay trung và dài hạn ở Việt Nam. Nếu vì một lý do nào đó mà lãi suất cho vay trung và dài hạn không giảm đi theo đúng định hướng của NHNN thì đó hoàn toàn là trách nhiệm của NHNN chứ không phải của NHTM, cũng như không nên trông chờ hay đá quả bóng trách nhiệm sang các NHTM.

 

 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).