Friday, 27 March 2015

Trả lời phỏng vấn về tỷ giá - (Bài không được báo đăng vì muộn hơn thời điểm tuyên bố của NHNN)

Theo ông, đâu là nguyên nhân thực sự đẩy tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng và trên thị trường tự do tăng mạnh trong những ngày qua?  

Nguyên nhân thực sự có lẽ đến từ những cảnh báo từ một số cá nhân về hậu quả của VND lên giá mạnh so với nhiều đồng bản tệ của các nước đối tác thương mại và đầu tư chính của Việt Nam do VND được neo giá vào đồng USD đang mạnh lên nhiều so với hầu hết các đồng bản tệ khác trên thế giới. Từ cảnh báo này, họ đã khuyến nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phá giá để giảm thiệt hại mang đến cho nền kinh tế Việt Nam.

Lưu ý rằng dư luận nhìn chung cho rằng USD lên giá mạnh cũng như chênh lệch giá vàng trong nước với thế giới ở mức cao khuyến khích giới buôn lậu mua USD để nhập khẩu vàng là 2 nguyên nhân chính (ngoài nguyên nhân “tâm lý” có phần bị ảnh hưởng từ khuyến nghị phá giá như nói ở trên) giải thích cho việc tỷ giá VND bị đẩy lên cao. Nhưng tôi cho rằng không phải vậy, vì thực tế thì USD đã lên giá với nhiều đồng bản tệ khác từ lâu rồi mà tỷ giá vẫn khá ổn định kể từ tháng 1. Rồi nữa, giá vàng trong nước nhiều thời điểm cũng chênh lệch lớn với giá ở nước ngoài, kể cả trong thời gian qua khi USD lên giá so với các đồng bản tệ khác, mà câu chuyện “tỷ giá nóng” đâu có xảy ra? Tỷ giá chỉ thực sự nóng từ khoảng 2 tuần nay, sau khi Ngân hàng Trung ương châu Âu tuyên bố gói nới lỏng định lượng để kích thích của họ, làm đồng Euro bị sụt giảm mạnh so với USD. Khi đó, trong nước bắt đầu xuất hiện những phân tích thiệt hơn của việc VND bị neo vào USD làm nó lên giá mạnh so với Euro (và những bản tệ khác) để rồi khuyến nghị NHNN phá giá VND. Từ đó trở đi, tỷ giá VND bắt đầu xu hướng tăng mạnh.

Ngân hàng Nhà nước vẫn đang im ắng trước diễn biến này. Ông có cho rằng, cơ quan này sẽ tính tới phương án điều chỉnh tỷ giá trong tương lai gần hay không, vì sao?

Nếu là vào những thời điểm khác thì NHNN thường phản ứng ngay, với những tuyên bố chẳng hạn như không cần phải, không có lý do gì để phá giá, cung cầu trên thị trường ngoại tệ vẫn ổn định v.v... để dẹp kỳ vọng NHNN “điều chỉnh” tỷ giá, và thường thì cơn sốt tỷ giá cũng xẹp xuống sau đó.

Nhưng lần này NHNN đã im ắng hơi lâu, một cách bất thường. Điều này chứng tỏ có thể NHNN cho rằng tình hình lần này thực sự là khác với những lần trước, nên họ hiểu rằng một sự tuyên bố nhanh chóng (với nội dung) như trước đây sẽ không còn “ép phê” gì nữa. Hoặc cũng có thể họ hiểu rằng giữ ổn định tỷ giá như hiện nay là điều thực sự không có lợi cho Việt Nam nên họ không vội vã tuyên bố không phá giá trước để tránh tình trạng sau này lại phải thu lại lời của mình khi buộc phải phá giá VND. Ngoài ra, cũng có một khả năng khác là NHNN đang “câu giờ”, đợi tình hình biến động tiền tệ trên thế giới lắng lại, bớt ảnh hưởng đến VND thì lúc đó họ mới lên tiếng cho “chắc ăn”.

Từ suy xét nói trên, khó nói NHNN sẽ điều chỉnh tỷ giá (phá giá) VND trong tương lai gần, vì vẫn còn khả năng thứ nhất (họ muốn ổn định tỷ giá, hoặc tin rằng thị trường vẫn tin vào cam kết của họ giữ ổn định tỷ giá nếu họ tái lập lại cam kết này) và khả năng thứ ba (câu giờ, để biết rõ hơn nên làm gì).

Nhưng nhìn chung, nếu NHNN điều chỉnh tỷ giá trong năm nay, và ở mức đáng kể (trên 1 điểm phần trăm) thì họ phải vượt qua sức cản từ chính mình xuất phát từ cam kết không phá giá quá 1 điểm phần trăm còn lại cho cả năm nay. Tôi không rõ sức cản này lớn đến đâu, nhưng có chút e ngại rằng với NHNN thì thể diện là cái lớn nên họ thà không điều chỉnh tỷ giá để giữ thể diện, dù sẽ gây hại cho nền kinh tế.

Xin ông phân tích những được/mất nếu NHNN giữ vững cam kết không điều chỉnh tỷ giá quá 2% trong năm nay?

Nếu NHNN không điều chỉnh tỷ giá sẽ làm VND lên giá với các bản tệ khác, gây tác động tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam đi khắp thế giới, kể cả Mỹ, do hàng xuất khẩu của Việt Nam bị mất lợi thế cạnh tranh về giá so với các đối thủ khác đến từ các nước khác hay ở ngay chính nước sở tại nhập khẩu hàng Việt Nam. Quan trọng không kém, VND lên giá là hàng hóa sản xuất tại Việt Nam bị mất lợi thế về giá so với hàng nhập khẩu từ các nước khác ngay trên lãnh thổ Việt Nam, dẫn đến thu hẹp sản xuất nội địa cho nhu cầu nội địa. Do cả sản xuất để xuất khẩu và sản xuất để tiêu thụ nội địa đều bị ảnh hưởng tiêu cực như vậy nên không chỉ tăng trưởng kinh tế giảm sút tương ứng mà thất nghiệp cũng sẽ gia tăng.

Như vậy, theo ông, NHNN nên theo đuổi cam kết của mình hay lựa chọn lợi ích cao nhất cho nền kinh tế?  

Như trên đã chỉ ra, để VND lên giá là điều có hại cho toàn cục, và NHNN nên điều chỉnh tỷ giá. Nhưng NHNN có muốn làm thế không thì lại là chuyện khác, phụ thuộc vào việc họ có hiểu rằng để VND lên giá là điều có hại như nói ở trong bài nay hay không, và trên hết, liệu NHNN có đủ can đảm để thay đổi lại lập trường tỷ giá của mình hay không (khi họ cũng nhận thấy tác hại của việc “ổn định” tỷ giá).

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).