Năm 2015 sắp qua,
khép lại hàng loạt sự kiện hội nhập của Việt Nam mà điển hình nhất trong số đó
là việc hoàn tất đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, TPP. Lo âu
cũng có, nhưng lạc quan, phấn khởi và hân hoan là nhiều hơn trên các khuôn mặt
của từ quan chức, chuyên gia đến người dân thường.
Không lạc quan và
hân hoan sao được khi mỗi cuộc đàm phán thương mại song phương và đa phương
(FTA) được hoàn tất và ký kết đều được loan tin với những chi tiết như đối tác
đàm phán có người đã phải lẻn ra một chỗ để khóc vì đã thất bại trong việc
thương lượng với phía Việt Nam, để rồi phải chấp nhận phần thua thiệt cho nước
họ, nhường phần thuận lợi hơn cho phía Việt Nam. Không vui mừng sao được khi
tác động của những FTA này đều được lượng hóa rành rành bằng những con số như
GDP của Việt Nam sẽ tăng được bao nhiêu phần trăm, bao nhiêu chục tỷ, trăm tỷ
USD, và Việt Nam luôn là nước được hưởng lợi nhiều nhất khi ký kết và thực hiện
những FTA này.
Lo âu cũng được
nói đến, nhắc đến nhưng thường chỉ dừng lại ở một nhóm ngành, một bộ phận nhỏ
dân chúng, tỷ như ngành chăn nuôi của Việt Nam trong TPP. Dễ thấy, trong cái sự
chói lòa của lợi ích hàng chục phần trăm tăng trưởng GDP, hàng chục, hàng trăm
tỷ USD gia tăng thêm vào thu nhập quốc dân thì sự sụp đổ, nếu có, của một bộ phận
nhỏ trong nền kinh tế cũng chỉ là, chỉ được coi như một cái giá phải trả rất hời,
rất dễ chịu để đánh đổi những lợi ích to lớn, toàn cục.
Nhưng rồi chợt nhớ
đến bài học thời hậu WTO. Thời đó thậm chí mọi người còn vui hơn, lạc quan hơn
nhiều, trước viễn cảnh cực kỳ tươi sáng rằng hàng đoàn các nhà đầu tư nước
ngoài sẽ chen chân vào Việt Nam để khai phá một thị trường mới nổi đầy tiềm
năng chưa được khai phá. Để rồi không lâu sau đó nền kinh tế bắt đầu trục trặc,
sa lầy vào vùng trũng tăng trưởng chậm kèm theo bất ổn kinh tế vĩ mô kéo dài để
lại hậu quả cho nhiều năm sau.
Nhưng nói như
trên không phải là đổ lỗi cho việc gia nhập WTO nói riêng hay mọi FTA nói chung
khác. Có lẽ, những bất ổn, những mất mát cho nền kinh tế xảy ra là hậu quả của
một thái độ chủ quan, duy ý chí, “hội” nhưng không chịu “nhập” cuộc chơi, hoặc
“nhập” nhưng không đến nơi đến chốn.
Cuộc chơi của
WTO, TPP hay bất cứ FTA nào đều dựa trên một tinh thần minh bạch, bình đẳng, tuân
thủ nguyên tắc thị trường. Hay nói cách khác, chính các FTA này thúc đẩy sự cải
cách một nền kinh tế đang loay hoay với cái định nghĩa “thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa” như của Việt Nam sang một nền kinh tế thị trường thuần túy
hơn, chỉ có cạnh tranh mới có thể tồn tại, để được các đối tác lớn tôn trọng và
tin cậy công nhận tư cách là một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa, nhờ đó được
hưởng những lợi ích đem đến từ việc các nước đối tác hạ thấp rào cản thuế quan,
không áp dụng các biện pháp hạn chế thương mại như chống bán phá giá lên hàng
xuất khẩu của Việt Nam.
Nhưng đáng tiếc
là với những FTA trước đây, chúng ta dường như không tận dụng được những lợi thế
mà chúng có khả năng đem lại, trong khi buộc phải mở cửa thị trường trong nước
để hàng hóa và dịch vụ của các nước đối tác xâm nhập mà không hoặc khó có thể
dùng các hình thức bảo hộ truyền thống như bấy lâu nay vẫn sử dụng. Mức độ minh
bạch và tính thị trường của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ, bị xếp
hạng yếu kém trong nhiều bảng xếp hạng trên thế giới trong nhiều năm qua. Khu vực
doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục được xác định là quả đấm thép, là khu vực được
bảo bọc và ưu tiên tối đa, thu hút phần lớn nguồn lực của quốc gia để rồi kết
quả hoạt động lại đi ngược lại với kỳ vọng, ngày càng yếu kém, nợ chồng chất nợ.
Khu vực tư nhân tuy là động lực tăng trưởng của nền kinh tế và là chủ thể khai
thác một cách hữu hiệu nhất các lợi thế mang đến từ các FTA nhưng trên thực tế
là chủ thể dễ bị tổn thương nhất từ các FTA khi các nguồn lực quốc gia lại tiếp
tục xa lánh nó, tập trung dồn sức cho khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Trong bối cảnh mà
các doanh nghiệp nhà nước tuy lớn xác mà ngày càng lụn bại, như cái thùng không
đáy nuốt chửng các nguồn lực quốc gia, còn các doanh nghiệp tư nhân thì bị bỏ mặc
vất vưởng, tự sống, tự tìm cách thâm nhập thị trường nước ngoài hoặc tự chống đỡ
với áp lực cạnh tranh từ hàng nhập khẩu, các doanh nghiệp nước ngoài (FDI) đã
nhanh chóng lấp đầy khoảng trống tạo ra trong nền kinh tế Việt Nam với những ưu
thế to lớn không thể so sánh về năng lực, vốn, quản trị và khả năng tiếp cận thị
trường trong và ngoài nước.
Đến các FTA mới
đây ký kết, đặc biệt là TPP, một hiệp định thương mại tự do được gọi là tầm cỡ
thế kỷ, và là điển hình cho các FTA khác trên thế giới. Xu hướng “hội” mà không
“nhập” tốt như trên có tiếp tục xảy ra nữa hay không? Hy vọng là lần này sẽ
khác về chất. Bởi khu vực doanh nghiệp nhà nước đã ngày càng mất đi vị thế và
tiếng nói trong công luận và ngay cả trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, tuy vẫn
còn được hậu thuẫn đây đó bởi một số tiếng nói bảo thủ, vụ lợi. Song song đó,
khu vực tư nhân đang ngày càng lớn mạnh, trưởng thành hơn và tỏ ra là những thế
lực kinh tế đáng gờm với không chỉ khu vực doanh nghiệp nhà nước mà còn với cả
các doanh nghiệp FDI.
Những cam kết chặt
chẽ trong TPP cũng không cho phép Chính phủ tùy ý muốn làm gì, muốn bảo hộ khu
vực doanh nghiệp nhà nước như thế nào thì làm. Hơn thế nữa, nó còn cho phép các
cá nhân được kiện Nhà nước ra trước các tòa án trọng tài quốc tế nếu quyền lợi
của họ bị xâm phạm bởi những hành vi phân biệt đối xử của Nhà nước. Tinh thần cạnh
tranh công bằng, không thiên vị, phân biệt đối xử, kèm theo cơ chế khiếu nại giải
quyết tranh chấp hữu hiệu được thể hiện xuyên suốt qua nhiều chương của TPP sẽ
buộc các quốc gia thành viên trong đó có Việt Nam phải tuân thủ cuộc chơi mang
tính thị trường, mở rộng cửa đón nhận hàng hóa, dịch vụ và vốn đầu tư của các
nước thành viên khác chảy vào, trong khi cũng sẽ được đảm bảo những lợi ích
tương tự từ những nước thành viên.
Như vậy, sự hội
nhập với thế giới hơn nữa thông qua các FTA nhất là TPP trong năm nay sẽ là một
cú “ngoại kích” song hành với một cú “nội công” từ sự trưởng thành và lớn mạnh
hơn của khu vực tư nhân và sự lao dốc của khu vực doanh nghiệp nhà nước sẽ buộc
Chính phủ phải có những thay đổi căn bản trong tư duy quản lý và điều hành nền
kinh tế, gây sức ép hơn nữa lên tiến trình cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế.
Nói cách khác, đây cũng chính là quá trình cởi trói, tự do hóa hơn nữa nền kinh
tế theo hướng thị trường, vốn có lợi cho sự năng động và linh hoạt của nền kinh
tế quốc gia nắm bắt những cơ hội mới đồng thời là bệ giảm sốc cho những tác động
tiêu cực không mong muốn đem lại từ các FTA này.
Trong quá trình
tái cơ cấu và tự do hóa hướng tới một nền kinh tế thị trường thuần túy, sự “nhập”
của Việt Nam càng trở nên nhanh hơn, thuận lợi và có ý nghĩa hơn nếu Chính phủ
biết điều chuyển những nguồn lực vốn bấy lâu nay vẫn dồn cho khu vực doanh nghiệp
nhà nước sang hậu thuẫn cho khu vực doanh nghiệp tư nhân, giúp chúng tăng cường
được tính cạnh tranh đồng thời tìm đến và tiếp cận được những thị trường thích
hợp cho hàng hóa và dịch vụ của mình. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng sự hậu thuẫn
này không nên được hiểu, không phải là các hình thức trợ cấp trực tiếp bằng ưu
đãi, bằng những quyền lợi như với doanh nghiệp nhà nước mà ở dạng gián tiếp như
đào tạo nhân lực, tiếp cận thị trường tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, thị trường
vốn và tín dụng dễ dàng hơn v.v...
No comments:
Post a Comment