Monday, 13 February 2017

Luật Hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng và xử lý nợ xấu: Muộn còn hơn không! (Bài đăng trên TBKTSG, 13/2/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/156707/Luat-Ho-tro-tai-co-cau-cac-ngan-hang-va-xu-ly-no-xau-Muon-con-hon-khong.html


Phát biểu tại hội nghị triển khai kế hoạch năm 2017 của VietinBank diễn ra ngày 9-1-2017, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Lê Minh Hưng cho biết cần có khuôn khổ pháp lý để xử lý nợ xấu và tái cơ cấu ngân hàng. NHNN sẽ phối hợp để xây dựng luật tạm gọi là Luật Hỗ trợ tái cơ cấu các ngân hàng và xử lý nợ xấu.
Theo đó, những vấn đề về xử lý các ngân hàng trong diện tái cơ cấu chưa có quy định của luật thì sẽ được luật hóa để có hành lang pháp lý rõ ràng, có công cụ để hệ thống ngân hàng thuận lợi trong việc thực hiện đề án tái cơ cấu. Về xử lý nợ xấu, những vướng mắc tồn tại trong quy định pháp luật, ví dụ, các quy định liên quan đến thu giữ tài sản đảm bảo để đảm bảo quyền lợi của người cho vay, cũng sẽ được đưa vào luật để tháo gỡ các khó khăn khi xử lý nợ xấu. Về xử lý sở hữu chéo, sẽ đưa vào luật những quy định chặt chẽ hơn để hạn chế thao túng, sử dụng ngân hàng nhằm mang lại lợi ích cho công ty sân sau.
Đã và sẽ rất cần thiết
Có thể nói ngay rằng xây dựng và ban hành một luật như trên là một điều rất cần thiết, lẽ ra đã phải làm ngay trước khi NHNN thực hiện những động thái liên quan đến tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, mua lại bắt buộc các ngân hàng thương mại (NHTM) với giá 0 đồng, và xử lý nợ xấu mà chủ yếu thông qua việc cho ra đời Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), hay “tạm” trích lập dự phòng, từ mà ông Hưng nêu ra trong hội nghị.


Vì sự thiếu vắng những cơ sở pháp lý như vậy mà dư luận tỏ ra không hoàn toàn thông suốt với những hành động mạnh tay xử lý các vấn đề tồn tại trong hệ thống ngân hàng như việc NHNN mua lại bắt buộc các NHTM với giá 0 đồng mà không cần sự đồng ý của các cổ đông hiện hữu, hay việc VAMC loay hoay với “đống” nợ xấu mua về khó xử lý vì các quyền hạn của ngân hàng với tư cách chủ nợ liên quan đến tài sản bảo đảm chưa được pháp luật đảm bảo…
Nên có những nội dung cụ thể nào?


Tuy NHNN không hé mở những nội dung, điều khoản cụ thể trong luật mà mình đề xuất nhưng căn cứ vào những động thái và phát biểu gần đây của các quan chức NHNN thì rất có thể sẽ có những nội dung được luật hóa liên quan đến việc các NHTM lớn, có vốn nhà nước, như Vietcombank, VietinBank và BIDV, tự nguyện hay được hoặc bị NHNN chỉ định tham gia tái cơ cấu các ngân hàng 0 đồng và các NHTM cổ phần thuộc dạng yếu kém khác. Những nội dung này có thể là quyền lợi, nghĩa vụ của các NHTM lớn này, sự ưu đãi từ cơ chế để đổi lấy việc tự nguyện hay chấp nhận tham gia tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, cơ chế để xử lý, giảm thiểu các hậu quả và thiệt hại mang lại cho các NHTM có vốn nhà nước này sau khi tham gia tái cơ cấu.


Có một nội dung quan trọng mà nếu không được luật hóa thì sẽ là một thiếu sót lớn. Các NHTM lớn trên tuy có vốn nhà nước nhưng về nguyên tắc vẫn là các ngân hàng cổ phần, có các cổ đông tư nhân. Dù luật đề xuất nói trên có thể có các điều khoản bảo đảm lợi ích khi các ngân hàng này tham gia tái cơ cấu nhưng điều này không có nghĩa là tất cả cổ đông của các ngân hàng này đều sẽ “vui vẻ” đồng thuận tham gia tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém khác. Tất nhiên là cổ đông nhà nước mà đại diện là NHNN có thể lấy tư cách là cổ đông chi phối để loại bỏ sự phản đối của các cổ đông khác, nhất là những cổ đông nhỏ, lẻ. Nhưng sự lấn lướt này sẽ tạo ra thêm những bất đồng, những tiền lệ không hay cho mô hình hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Bởi vậy, luật đề xuất nói trên nên có thêm những điều khoản mở rộng quyền của các cổ đông nhỏ, lẻ, không chi phối trong việc quyết định có tham gia hay không việc tái cơ cấu các ngân hàng khác, chẳng hạn bằng việc nâng cao tỷ lệ bỏ phiếu chấp thuận trong hội nghị cổ đông.

Ngoài ra, nếu lấy lý do nguồn lực trong nước hạn chế, chuyện bán cổ phần cho nước ngoài còn nhiều rào cản… để cho rằng việc tái cơ cấu các NHTM yếu kém nhất thiết phải có sự tham gia của các NHTM có vốn nhà nước thì sẽ chưa thuyết phục.


Không nói đâu xa, Chính phủ đang có chủ trương huy động vàng trong dân để phát triển kinh tế. Nói điều này để cho thấy nguồn lực trong nước vẫn còn rất nhiều tiềm năng và điều thiếu vắng chỉ là cơ chế phù hợp để huy động nguồn lực này, kể cả vào việc tái cơ cấu các ngân hàng. Một trong những cách có thể thực hiện được là song song với việc ghi giảm giá trị sổ sách các khoản nợ xấu (nhất là các khoản nợ xấu ít có khả năng thu hồi) của mình, các ngân hàng yếu kém tiến hành chứng khoán hóa các khoản nợ xấu đỡ “xấu” hơn dưới sự bảo lãnh của Chính phủ (có thu phí), và có thể dùng các chứng khoán này làm tài sản thế chấp cho các giao dịch khác. Đây là một cách làm được áp dụng ở nhiều nơi, mà điển hình mới đây nhất là sự tái cơ cấu ngân hàng Popolare di Mari ở Ý.


Đồng thời, chuyện bán cổ phần cho nước ngoài còn nhiều rào cản hoàn toàn có thể khắc phục được cũng chính bằng luật hóa, hoặc sửa đổi luật hiện tại để loại bỏ những rào cản này, làm cho nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia thuận lợi vào việc tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, một lĩnh vực chắc chắn cũng rất hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư ngoại mà vướng mắc chỉ là rào cản pháp lý. Không sửa những bất cập trong luật hiện hành mà chỉ chăm chăm nghĩ đến ban hành một luật mới làm lối thoát trong cùng một lĩnh vực là điều khó hiểu, khó chấp nhận được. Nếu lo ngại sự tham gia ngày càng tăng của nhà đầu tư ngoại vào hệ thống ngân hàng Việt Nam thì cần nhớ rằng ngay các NHTM có vốn nhà nước cũng có cổ đông (không nhỏ) là các ngân hàng và nhà đầu tư nước ngoài!

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).