Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã bất ngờ giảm lãi suất điều hành của mình (giảm 0,25 điểm phần trăm) và trần lãi suất cho vay ngắn hạn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực và ngành kinh tế (giảm 0,5 điểm phần trăm).
Trên lý thuyết,
việc cắt giảm các lãi suất điều hành này có thể được coi là sự nới lỏng chính
sách tiền tệ của NHNN, tương tự như động thái của các ngân hàng trung ương khác
trên thế giới. Nếu được truyền dẫn đầy đủ đến kênh tín dụng của các ngân hàng
thương mại cho nền kinh tế thì đây là một hành động rất có ý nghĩa với khách
hàng doanh nghiệp và cá nhân vay vốn ngân hàng khi họ luôn phải trông ngóng, so
đo từng số thập phân, từng phần lẻ của lãi suất cho vay.
Tuy vậy, trên thực
tế, hành động cắt giảm lãi suất điều hành trên khó có thể coi là hành động nới
lỏng chính sách tiền tệ. Điều này được thể hiện một phần không chỉ bởi mức cắt
giảm lãi suất điều hành ở mức rất khiêm tốn, 0,25 điểm phần trăm, so với các mức
lãi suất điều hành hiện tại đang ở mức cao (lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm; lãi suất
tái chiết khấu là 4,5%/năm; còn lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện
tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của
NHNN đối với các ngân hàng lên đến 7,5%/năm), mà còn được thể hiện ở việc NHNN vẫn tuyên bố
là sẽ chốt hạn mức tăng trưởng tín dụng chung cả năm khoảng 18%. Đây là một chi
tiết rất quan trọng để hiểu rõ bản chất của động thái nới lỏng trên của
NHNN.
Khi nguồn cung vốn
từ NHNN có giá rẻ hơn, các ngân hàng thương mại sẽ có thêm thuận lợi để cho vay
ra nền kinh tế với lãi suất thấp hơn. Điều này, đến lượt nó, sẽ kích hoạt nhu cầu
vay mượn của các doanh nghiệp và cá nhân, dẫn đến tăng trưởng tín dụng được đẩy
mạnh. Nếu quá đà, tăng trưởng tín dụng mạnh sẽ đẩy nền kinh tế vào tình trạng
tăng trưởng nóng, với đầu tư, tiêu dùng, nhập khẩu và lạm phát đều gia tăng mạnh
mẽ.
Với chủ trưởng ổn
định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, NHNN chốt chặn tăng trưởng tín dụng
chung cho nền kinh tế năm nay ở mức 18%, gần như không thay đổi so với trước
đây. Việc này dẫn đến kết quả là sau động thái nới lỏng trên, tín dụng ngân
hàng sẽ tăng tốc mạnh hơn trong các tháng tới đây, nhưng tốc độ tăng trưởng tín
dụng chung sẽ chững lại và giảm dần sau đó, càng về gần cuối năm khi nó đạt đến
mức trần khống chế 18% của NHNN. Lúc đó, dù lãi suất điều hành của NHNN và lãi
suất cho vay của ngân hàng thương mại vẫn được duy trì ở mức thấp hơn như vậy
nhưng các ngân hàng thương mại với “room” tăng trưởng tín dụng không còn là bao
buộc phải trở nên rất lựa chọn khi tiếp tục cho vay vốn, tập trung hơn vào chất
(lãi suất cao nhưng an toàn), thay vì chạy theo số lượng như trước.
Như vậy, bằng việc
khống chế hạn mức tăng trưởng tín dụng, động thái hạ lãi suất điều hành của
NHNN về bản chất không phải là hành động nới lỏng chính sách tiền tệ mà chỉ có
tác dụng thay đổi cơ cấu cho vay của các ngân hàng thương mại.
Do bản chất không
phải là nới lỏng chính sách tiền tệ, tăng cung tiền quá mức nên hành động hạ
lãi suất điều hành trên của NHNN cũng vì thế, về nguyên tắc, sẽ không tạo ra
thêm áp lực lạm phát. Áp lực lạm phát chỉ gia tăng thêm khi NHNN vừa duy trì mặt
bằng lãi suất điều hành thấp hơn, vừa gia tăng cung tiền để đáp ứng nhu cầu huy
động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại
cho vay ra nền kinh tế đang tăng lên nhằm mục đích, ví dụ, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế khi họ nhận thấy tốc độ tăng trưởng vẫn chưa đạt được mức kỳ vọng dù đã
sử dụng hết room tăng trưởng tín dụng 18%.
Một câu hỏi liên
quan ở đây là trong hoàn cảnh đó (áp lực lạm phát gia tăng khi cung tiền gia
tăng), NHNN cần và có thể làm gì để giảm áp lực lạm phát trong khi vẫn đáp ứng
được nhu cầu vốn gia tăng từ nền kinh tế?
Câu trả lời là, ngoài
biện pháp quen thuộc là hướng tín dụng vào những ngành có tốc độ tăng trưởng
nhanh, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng trưởng chung nhưng lại cần nhiều vốn, ví
dụ công nghiệp chế biến, chế tạo, NHNN cần điều chỉnh tỉ giá VND/USD tăng lên
thông qua mua vào và bán ra USD với giá cao hơn giá thị trường để hỗ trợ xuất
khẩu và giảm nhập khẩu. Lượng tiền đồng bơm ra thị trường từ việc mua vào USD cần
được trung hòa ở mức độ phù hợp (so với lượng USD bán ra và so với tốc độ tăng
cung tiền) để đảm bảo việc làm yếu VND không ảnh hưởng đến tăng cung tiền và
tín dụng.
Một câu hỏi có
liên quan khác là các mức lãi suất điều hành mới sẽ được duy trì đến bao giờ,
và điều gì làm NHNN thay đổi chúng trong tương lai?
Câu trả lời phụ
thuộc trước tiên vào diễn biến lạm phát và tiếp đó là các yếu tố bên ngoài. Nếu
lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp thì NHNN càng có thêm dư địa để
không những duy trì mà thậm chí còn cắt giảm thêm các lãi suất điều hành này,
và ngược lại. Với các yếu tố bên ngoài, ví dụ, Fed tiếp tục tăng lãi suất trong
năm nay, áp lực gia tăng lên tỉ giá VND/USD có thể sẽ buộc NHNN phải xem xét điều
chỉnh trở lại các mức lãi suất điều hành này, nếu các yếu tố còn lại không thay
đổi.
No comments:
Post a Comment