Sáng 18/7, dẫn đầu đoàn kiểm tra Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về tình hình thực hiện các nhiệm vụ được Chính phủ và Thủ tướng giao, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ Mai Tiến Dũng đã truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng yêu cầu NHNN hạ lãi suất. Theo Bộ trưởng Dũng: “Tính toán phác thảo, dư nợ tín dụng của Việt Nam khoảng trên 5 triệu tỷ đồng, nếu giảm lãi suất 1% thì các DN dành được 50.000 tỷ đồng, cứ tính 5 đồng vốn 1 đồng lãi thì chúng ta đã có 10.000 tỷ đồng, riêng tiền thuế thu nhập DN đã có 2.000 tỷ đồng và giúp tăng 0,25% GDP. Hay nợ công trong nước hiện khoảng 1 triệu tỷ đồng, nếu giảm lãi suất 1% thì tiết kiệm từ ngân sách khoảng 10.000 tỷ đồng”.
Nói
thêm về tầm quan trọng của việc hạ lãi suất, Bộ trưởng Dũng cho biết nợ công hiện
nay khoảng 1 triệu tỉ đồng. Theo Bộ trưởng thì nếu lãi suất cho vay giảm 1%/ năm thì "chúng ta tiết
kiệm được cho ngân sách nhà nước 10.000 tỉ đồng", là một khoản bù đắp
đầu tư phát triển rất tốt”.
Những con số nêu trên
dường như cho thấy dù chỉ giảm ở mức độ khiêm tốn là 0,5 đến 1 điểm phần trăm
thì việc hạ lãi suất vẫn sẽ rất có ý nghĩa cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên,
nếu phân tích sâu hơn một chút thì thấy có một số bất hợp lý trong những con số
nếu trên.
Thứ nhất, với dư nợ
tín dụng của Việt Nam trên 5 triệu tỷ đồng thì đúng là nếu giảm lãi suất 1 điểm
phần trăm tính trên 5 triệu tỷ đồng, sẽ giảm được 50.000 tỷ đồng tiền lãi nền
kinh tế phải trả cho hệ thống ngân hàng thương mại hàng năm. Tuy nhiên, 5 triệu
tỷ đồng dư nợ tín dụng này là con số cộng dồn dư nợ từ trước đến nay (và vẫn
còn hiệu lực đến hiện tại). Và 5 triệu tỷ đồng này có nhiều kỳ hạn khác nhau, với
nhiều mức lãi suất khác nhau, khó có thể cắt giảm theo kiểu “hồi tố” được, vì
đã thể hiện và cam kết trong hợp đồng cho vay giữa ngân hàng với người vay. Nếu
buộc ngân hàng phải tự nguyện cắt giảm theo kiểu hồi tố thì điều này có nghĩa
là làm thiệt hại một cách bất công cho ngân hàng bởi họ cho vay với lãi suất
cao thì cũng phải huy động với lãi suất cao. Vậy, 50.000 tỷ đồng mà doanh nghiệp
và cá nhân vay vốn ngân hàng được hưởng lợi cũng chính là khoản thua lỗ mà các
ngân hàng sẽ phải gánh chịu.
Chưa hết, lợi nhuận
ngân hàng giảm sẽ dẫn đến hàng loạt hệ lụy lên tăng trưởng và ổn định vĩ mô như
không có nguồn bổ sung, củng cố vốn an toàn tối thiểu nên làm tăng rủi ro đổ vỡ
hệ thống; thiếu hụt nguồn vốn cho vay kết hợp với tỷ lệ an toàn vốn không được
cải thiện sẽ làm cho tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế bị co hẹp lại; và phần
trích nộp ngân sách dưới dạng thuế thu nhập doanh nghiệp và phân chia lợi nhuận
cổ đông (với các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước) cũng bị suy giảm theo
làm tăng thâm hụt ngân sách, giảm chi tiêu công và kích cầu, từ đó lại dẫn đến
giảm tăng trưởng kinh tế…
Giả sử việc cắt giảm
lãi suất cho vay chỉ diễn ra với những khoản cho vay mới từ thời điểm này trở
đi. Vì dư nợ cho vay mới chỉ là một phần của con số 5 triệu tỷ đồng trên
(18%-20%, là tốc độ tăng trưởng tín dụng mục tiêu cho năm nay), con số “tiết kiệm”
được, không phải trả lãi cho các ngân hàng cũng sẽ chỉ là một phần của con số
50.000 tỷ đồng nói trên (chính xác là 9-10.000 tỷ đồng), không lớn như tuyên bố.
Đó là chưa kể việc “tiết kiệm” này cũng vẫn chính là phần lợi nhuận mà ngân
hàng phải “cắt máu” cho doanh nghiệp và cá nhân vay vốn, và cũng sẽ mang lại những
hệ lụy cho tăng trưởng và ổn định như phân tích ở trên.
Thứ hai, giả sử cứ đầu
tư 5 đồng thì thu được 1 đồng lãi, đúng như Bộ trưởng Dũng phát biểu thì từ 9-10.000
tỷ đồng “tiết kiệm” được như tính toán ở trên, “chúng ta” sẽ thu thêm được gần
2.000 tỷ đồng lãi. Trong số này, tiền thuế thu nhập doanh nghiệp thu được sẽ là
400 tỷ đồng (20% lợi nhuận), chứ không phải là 2.000 tỷ đồng như công bố của Bộ
trưởng. Và xin nhắc lại là “chúng ta” thu thêm được 2.000 tỷ đồng tiền lãi và
ngân sách thu thêm được 400 tỷ đồng thuế thu nhập nhưng thực chất những con số
này sẽ bị ghi giảm trừ từ phần đóng góp của hệ thống ngân hàng thương mại do đã
phải hy sinh lợi nhuận cho phần còn lại của nền kinh tế.
Thứ ba, Bộ trưởng
Dũng nói 2.000 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp làm tăng 0,25% GDP. Nhưng lưu
ý rằng GDP theo giá thực tế hiện là trên 5 triệu tỷ đồng. Con số 2.000 tỷ đồng
này chỉ tương đương chưa đến 0,04% GDP mà thôi.
Thứ tư, về nợ công mà
theo công bố trên là 1 triệu tỷ đồng. Cũng tương tự như đã phân tích, đây là dư
nợ đến thời điểm hiện tại với kỳ hạn và lãi suất đã ấn định xong xuôi, không thể
hồi tố được. Nên dù lãi suất huy động cho trái phiếu Chính phủ có giảm 1 điểm
phần trăm thì không có nghĩa là ngân sách tiết kiệm được 10.000 tỷ đồng như
trong lập luận của bộ trưởng. Có chăng, chỉ các khoản vay nợ công mới (kể cả để
đảo nợ) từ nay trở đi mới được hưởng lãi suất thấp hơn này. Nhưng những khoản
vay mới này cũng sẽ chỉ là một phần nhỏ của con số 1 triệu tỷ đồng nợ công hiện
tại. Nói cách khác, giảm lãi suất 1 điểm phần trăm sẽ chỉ có tác dụng khiêm tốn
hơn rất nhiều so với con số ước tính trên.
Và cũng không thể
không nhắc lại một lần nữa rằng giảm được gánh nặng nợ công nhờ giảm lãi suất sẽ
đi kèm với cái giá phải trả là phần nộp ngân sách từ hệ thống ngân hàng sẽ bị
co hẹp lại tương ứng, chưa kể đến các hệ lụy đến tăng trưởng và ổn định vĩ mô
như đã chỉ ra ở trên.
Tóm lại, việc cắt giảm
lãi suất nếu không có giải pháp đi kèm để không làm thiệt hại đến doanh thu và
lợi nhuận của hệ thống ngân hàng thì sẽ không những không có (mấy) tác dụng mà
thậm chí còn làm tổn hại đến tăng trưởng và ổn định vĩ mô.
No comments:
Post a Comment