Nền kinh tế đã đi qua nửa chặng đường của năm nay với tốc độ tăng trưởng khá thấp so với mục tiêu tăng trưởng 6,7% cả năm nay. Như thường lệ, hàng loạt đề xuất và giải pháp được đưa ra để vực tăng trưởng của nửa năm còn lại sao cho bù đắp được sự giảm sút tăng trưởng của nửa năm đầu và đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm.
Giải pháp đầu
tiên hay được nhắc đến bởi một số chuyên gia và quan chức là tăng sản lượng
khai thác dầu thô. Cần lưu ý là giải pháp này đã được đề cập đến từ nhiều năm
qua, mỗi khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng “hụt hơi”. Tuy nhiên, giải
pháp này nếu được thực hiện vào những năm trước, khi giá dầu còn ở mức cao, thì
còn có thể hiểu được logic của nó. Nhưng hiện tại, giá dầu đang “lình xình” ở
vùng thấp, quanh quẩn 50 đôla/thùng so với trên 100 đôla/thùng của vài ba năm
trước, và chẳng có dấu hiệu gì sẽ bật tăng mạnh và bền vững trong nửa năm còn lại.
Trong bối cảnh giá dầu thấp, thậm chí còn nằm trong vùng giá thành khai thác của
Petro Vietnam, việc khai thác thêm hàng triệu tấn dầu có khác gì tự cắt thịt
mình nấu cháo?
Tất nhiên, không
loại trừ khả năng đề xuất tăng khai thác dầu thô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
là xuất phát từ cách tính (sai, không hợp lý) GDP ở Việt Nam. Có lẽ từ trước đến
nay cách tính GDP vẫn dựa vào mức tăng khối lượng, sản lượng của các ngành sản
xuất và dịch vụ, tại một mức giá cố định, ví dụ, giá của năm 2010. Theo đó, bất
kể giá thực tế của hàng hóa và dịch vụ diễn biến trên thực tế như thế nào thì mức
đóng góp của các hàng hóa và dịch vụ vào tốc độ tăng trưởng chung sẽ tương
đương với tốc độ tăng trưởng về lượng của các hàng hóa và dịch vụ đó. Biến động
giá cả (do lạm phát v.v…) được loại trừ hoàn toàn vì người ta sử dụng giá cố định
của năm 2010. Trên cơ sở này, kể cả giá dầu có tụt giảm một nửa so với trước
đây nhưng nếu lượng dầu thô khai thác tăng gấp đôi thì vẫn cho ra kết quả tính
toán là mức đóng góp của khai thác dầu thô vào GDP đã tăng lên gấp đôi!
Rõ ràng, nếu nhìn
nhận bằng con mắt tỉnh táo, hiện thực thì khi tăng gấp đôi sản lượng dầu thô với
giá bán giảm một nửa thì tổng giá trị thu được từ khai thác dầu thô sẽ không
thay đổi, và sẽ chẳng có thêm chút giá trị gia tăng nào tạo thêm ra để đóng góp
vào tăng trưởng GDP hết. Chưa dừng ở đó, vì giá bán cũng bằng hoặc gần bằng giá
thành khai thác, nên nếu cộng thêm đủ loại chi phí liên quan đến khai thác như
chi phí tài chính, quản lý, khấu hao… thì thậm chí còn bị lỗ, tức là giá trị thặng
dư tạo thêm ra là âm, và GDP còn bị “thâm” thêm nữa! Nói cách khác, bên cạnh
chuyện bảo vệ trữ lượng dầu thô đang có xu hướng cạn kiệt, tuyệt đối không được
tăng khai thác dầu thô để kích thích tăng trưởng GDP khi giá dầu tụt dốc tiệm cận
với giá thành khai thác.
Giải pháp thứ hai
được một chuyên gia đưa ra gần đây là kích thích tăng tiêu dùng nội địa. Theo
tính toán của vị này thì tăng 1% tiêu dùng nội địa tương đương với tăng thêm
380 nghìn tỷ đồng cho nền kinh tế (vì tiêu dùng chiếm 78% GDP, theo vị này cho
biết).
Rất tiếc, giải
pháp trên được đưa ra dựa trên một sự nhầm lẫn quan trọng. Dù là tiêu dùng chiếm
đến 78% GDP nhưng không có nghĩa là cứ tăng tiêu dùng thêm 1% thì GDP sẽ có
thêm ngay 380 nghìn tỷ đồng (tức tăng 0,78 điểm phần trăm). Đơn giản vì bên cạnh
tiêu dùng (cá nhân) còn có các cấu thành khác tạo nên GDP, là chi tiêu Chính phủ,
đầu tư, và xuất khẩu ròng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Các cấu thành này có thể
bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tăng tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình.
Tăng tiêu dùng cá
nhân và hộ gia đình rất có thể sẽ làm giảm chi tiêu Chính phủ. Cụ thể hơn, khi
cá nhân và hộ gia đình đổ tiền vào chi tiêu, họ phải cắt giảm tiết kiệm. Hệ thống
ngân hàng thương mại sẽ bị ảnh hưởng bởi tiền gửi và tiết kiệm từ dân chúng giảm
đi. Vì vậy, các ngân hàng sẽ có thể phải cắt giảm lượng vốn dành cho trái phiếu
Chính phủ, hoặc đòi hỏi Chính phủ phải trả lãi cao hơn cho trái phiếu của mình
thì họ mới mua. Đến lượt mình, Chính phủ buộc phải cắt giảm chi tiêu vì không
huy động được vốn hoặc chi phí huy động trở nên quá cao, ảnh hưởng đến cân đối
thu chi ngân sách.
Tăng tiêu dùng cá
nhân và hộ gia đình cũng rất có thể làm giảm đầu tư. Chưa kể đến đầu tư công có
thể sẽ bị sụt giảm vì Chính phủ không huy động được đủ vốn (với chi phí hợp lý)
để đầu tư như nói ở trên. Ngay cả đầu tư tư nhân cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi tiền
làm ra được đổ vào ăn tiêu, mua sắm mà không dành cho đầu tư, không gửi tiết kiệm
(do đó ngân hàng cũng sẽ không có đủ vốn để tài trợ cho các nhà đầu tư trong nước).
Tăng tiêu dùng cá
nhân và hộ gia đình còn chắc chắn sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn khác là
tăng nhập khẩu (vì hàng hóa sản xuất trong nước không thể đáp ứng ngay và đầy đủ
mọi nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng tăng lên đột xuất tại một thời điểm). Trong
khi đó, xuất khẩu có thể lại giảm đi vì vốn đầu tư để duy trì hoặc mở rộng xuất
khẩu đã bị cắt giảm để tài trợ cho tiêu dùng. Cho dù có giả định là xuất khẩu vẫn
được giữ nguyên, nhưng với nhập khẩu tăng lên thì xuất khẩu ròng phải giảm đi
tương ứng. Điều này, kết hợp với khả năng cả đầu tư và chi tiêu Chính phủ bị
suy giảm, thậm chí lại còn làm giảm thay vì tăng GDP như lập luận của vị chuyên
gia trên.
Dẫu vậy, phân
tích như trên không có nghĩa là không nên kích thích tiêu dùng nội địa. Để tiêu
dùng nội địa đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP thì cần phải thỏa mãn một số
điều kiện mà có thể được rút ra cũng chính từ sự phân tích trên.
Điều kiện trước
tiên là song song với kích thích tiêu dùng nội địa phải có những biện pháp kiểm
soát, hạn chế nhập khẩu, từ đó kích thích các hoạt động sản xuất trong nước nhằm
đáp ứng nhu cầu chi tiêu tăng lên trong nước. Tuy vậy, thực hiện việc này không
đơn giản trong bối cảnh có hàng loạt các hiệp định thương mại tự do song phương
và đa phương mà Việt Nam đã cam kết.
Điều kiện thứ hai
là đi kèm với tăng chi tiêu cá nhân và hộ gia đình thì cần phải có nguồn vốn bổ
sung cần thiết để duy trì hoạt động đầu tư và chi tiêu Chính phủ thay thế cho
nguồn vốn tiết kiệm từ khu vực cá nhân và hộ gia đình đã bị suy giảm. Nguồn vốn
bổ sung này không gì khác chính là nguồn vốn vay nước ngoài. Nhưng nguồn vốn
này có giới hạn vì động chạm đến các hạn mức vay nợ Chính phủ và tư nhân nên
không thể trông chờ nhiều vào đó được.
Tóm lại, những giải
pháp thúc đẩy tăng trưởng kể trên nếu không thực hiện một cách đúng đắn và cẩn
trọng thì thậm chí còn tạo ra tác động ngược đến tăng trưởng GDP.
No comments:
Post a Comment