Thursday, 23 November 2017

Nợ xấu giảm chưa thực chất (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 23/11/2017, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/td/265264/No-xau-giam-chua-thuc-chat.html

Trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Lê Minh Hưng cho biết tổng số nợ tiềm ẩn có thể thành nợ xấu, nợ xấu nội bảng và nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được của toàn hệ thống tính đến cuối tháng 9/2017 là 566 nghìn tỷ đồng, giảm so với mức 600 nghìn tỷ đồng tại thời điểm cuối năm 2016. Tỷ lệ nợ xấu đến cuối tháng 9/2017 là 8,61%, cũng giảm so với mức 10,08% hồi cuối năm 2016.
Phân tích thêm thông tin ngắn gọn trên cho thấy một số điểm đáng chú ý về tình hình nợ xấu và xử lý nợ xấu trong thời gian qua.
Thứ nhất, nếu so tổng số nợ xấu mà Thống đốc Hưng báo cáo ở trên với con số tương tự được nguyên Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình “tiết lộ” vào tháng 9/2014 là khoảng 500.000 tỷ đồng thì sẽ thấy rằng thực tế tổng nợ xấu đã tăng lên mạnh (20%) ít nhất là cho đến thời điểm tháng 12/2016, trước khi giảm đi trong năm 2017.[1]
Ở đây có hai khả năng. Khả năng đầu tiên là ông Bình đã “tiết lộ” nhưng không chính xác, đầy đủ con số nợ xấu thực tế phát sinh và tích tụ trong hệ thống ngân hàng dưới thời của ông. Khả năng này không thể hoàn toàn phủ nhận nếu nhớ lại rằng NHNN lúc đó đã có sự bất nhất về con số nợ xấu, và đã từng phải cải chính bằng những con số nợ xấu cao hơn nhiều cho những thời điểm trước đó (xem, ví dụ, [2] và [3]).
Nếu khả năng trên là không đúng thì chỉ còn lại khả năng là công cuộc xử lý nợ xấu ít nhất là từ các năm 2012 cho đến 2016 đã không thành công, nếu không muốn nói ngược lại, với nợ xấu thực chất đã tăng lên mạnh thay vì giảm đi như kỳ vọng.
Điểm đáng chú ý thứ hai về những con số do Thống đốc Hưng báo cáo là mặc dù tổng nợ xấu đã giảm đi trong năm nay (tính đến tháng 9), nhưng giá trị nợ xấu nội bảng lại tăng lên, như được trình bày trong bảng dưới đây. Cụ thể hơn, nợ xấu nội bảng đã tăng 5% so với thời điểm tháng 12/2016, từ 146.429 tỷ đồng lên 153.826 tỷ đồng.
Có thể sẽ có người giải thích rằng nợ xấu nội bảng tăng lên một phần là do tín dụng (tổng dư nợ) cũng đã tăng trưởng mạnh (10,44%) làm phát sinh nợ xấu nội bảng mới. Nhưng dù vậy, tốc độ tăng nợ xấu nội bảng, bằng phân nửa tốc độ tăng trưởng tín dụng, cũng vẫn cho thấy một sự quá bất thường. Điều này lại cho thấy hai khả năng. Khả năng thứ nhất là tăng trưởng tín dụng đã phải trả bằng cái giá quá đắt là làm tăng mạnh nợ xấu (nội bảng), nên cần phải đặt câu hỏi nghiêm túc là liệu có nên cố gắng thúc đẩy và/hoặc duy trì tăng trưởng tín dụng cao như hiện nay hay không.
Khả năng thứ hai liên quan đến sự tăng lên của nợ xấu nội bảng là, ngoài sự “góp mặt” của khả năng thứ nhất, nợ xấu nội bảng còn tăng bởi thực tế là đã có một phần dư nợ trước đây lẽ ra đã phải bị phân loại là nợ xấu thì lại được che giấu, phân loại thành nợ bình thường, đến nay mới bộc lộ (không thể che giấu được nữa). Và điều rút ra được từ khả năng này đương nhiên sẽ là muốn xử lý nợ xấu thành công thì trước hết phải trung thực, minh bạch, không vì bệnh thành tích hay động cơ chính trị nào đó để cho ra những con số đẹp đẽ không có thực.
Một điểm đáng chú ý nữa trong bảng dưới đây là mức giảm mạnh của nợ xấu tiềm ẩn (chủ yếu là các cam kết bảo lãnh vay vốn, cam kết trong nghiệp vụ L/C và các cam kết bảo lãnh khác), giảm tới 25.397 tỷ đồng so với cuối năm 2016 và chiếm tỷ trọng lớn trong con số 34.000 tỷ đồng là mức cải thiện (giảm đi) của nợ xấu tính đến tháng 9/2017 so với cuối năm 2016 (=600.000 tỷ - 566.000 tỷ). Mức giảm này thậm chí còn lớn hơn nhiều khoản nợ xấu được VAMC xử lý trong năm nay (16.000 tỷ).
Căn cứ vào quá trình chật vật xử lý nợ xấu suốt nhiều năm qua cũng như thực tế là cho đến nay chưa bao giờ NHNN công bố diễn biến của cấu thành này trong bức tranh nợ xấu ở Việt Nam nếu nó thực sự có đóng góp tích cực vào cải thiện nợ xấu như vậy, có thể suy ra một cách không hề thiếu thận trọng rằng mức giảm của nợ xấu tiềm ẩn, nếu có, không thể lớn đến mức độ như vậy. Nói cách khác, vẫn có một sự không rõ ràng, chính xác về con số tổng nợ xấu mới được NHNN báo cáo.
Tóm lại, đằng sau những con số tỷ lệ nợ xấu “đẹp” mà NHNN báo cáo là một thực tế có thể khác nhiều và chứa đựng nhiều điều đáng suy ngẫm và đòi hỏi những hành động cần thiết tương ứng của các bên có liên quan.



[1] http://www.thesaigontimes.vn/120664/Thong-doc-NHNN-thua-nhan-no-xau-len-den-500000-ti-dong.html
[2] http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/tien-te-bao-hiem/2014-02-21/nhnn-phan-hoi-ve-so-lieu-no-xau-cua-moody%E2%80%99s-7875.aspx
[3] http://soha.vn/20-phut-dang-dan-cua-thong-doc-nhieu-so-lieu-ve-no-xau-va-vi-pham-ngan-hang-duoc-cong-bo-20170607142605095.htm

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).