Saturday, 8 September 2018

Phác họa bức tranh mờ ảo nợ xấu (Bài đăng trên TBKTSG, 9/9/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/278083/phac-hoa-buc-tranh-mo-ao-no-xau-.html

Tổng kết một năm thực hiện Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố một số số liệu cập nhật liên quan đến tình hình nợ xấu và xử lý nợ xấu. Theo đó, nhìn chung nợ xấu dường như đã trở nên bớt... xấu. Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ hơn thì có thể thấy còn nhiều điều đáng nói về vấn đề nợ xấu ở Việt Nam.

Những khoảng trống và sai lệch
Bảng dưới đây tập hợp và tính toán lại các số liệu về nợ xấu và xử lý nợ xấu dựa theo những gì mà NHNN đã công bố đây đó, tại các sự kiện khác nhau trong vòng hai năm qua.
Không hiểu vì lý do gì mà tổng nợ xấu trong toàn hệ thống trong hai thời điểm là cuối năm 2017 và cuối quí 1-2018 lại không được công bố. Điều này không chỉ tạo ra khoảng trống thông tin về quy mô và diễn biến nợ xấu theo thời gian, mà còn làm cho việc phân tích biến động của nợ xấu tiềm ẩn và nợ xấu bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) trong hai thời kỳ này trở nên không thể, và, do đó, cũng không thể kết luận được là xử lý nợ xấu liệu có đang trên đà cải thiện theo hướng thực chất và bền vững hay không.
Cũng tương tự như vậy là sự thiếu vắng thông tin chi tiết về lượng nợ xấu đã được xử lý theo Nghị quyết 42 vào cuối năm 2017 và quí 1 năm nay. Vì sự thiếu vắng này nên chúng ta không thể biết kênh xử lý nợ nào hữu hiệu hơn trong một năm qua.
Và nữa, cách đưa ra các tiêu chí thống kê nợ xấu, lúc thì dùng tiêu chí nợ tiềm ẩn thành nợ xấu, lúc thì đưa ra tiêu chí nợ xấu ngoại bảng - là hai tiêu chí khác nhau - không chỉ làm cho việc so sánh và thông hiểu con số tổng nợ xấu với con số nợ xấu đã được xử lý trở thành không thể, mà còn làm cho người đọc rơi vào trạng thái “tù mù”, có biết  vài con số thì cũng như không.
Trong năm 2017, con số về tỷ lệ tổng nợ xấu trong hệ thống mà dư luận được biết qua các báo khác nhau nhưng đều dẫn nguồn từ NHNN là 8,86% (1), và 10,08%(2) đều tính đến cuối năm 2016. Nhưng căn cứ vào con số tuyệt đối về nợ xấu cuối năm 2016 là 600.000 tỉ đồng(2) và tổng dư nợ tín dụng cả hệ thống vào cuối năm 2016 được công bố trên trang web của NHNN thì tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2016 tính chính xác lại phải là 10,9% (xem bảng). Khó mà nói những sai lệch này là không đáng kể.
Xử lý nợ xấu không nhanh hơn nhiều trong năm 2018
Theo NHNN, trong nửa đầu năm nay đã có trên 58.000 tỉ đồng nợ xấu được xử lý(3). Và cũng theo NHNN thì lượng nợ xấu đã được xử lý theo Nghị quyết 42 tính đến tháng 6-2018 là hơn 138.000 tỉ đồng. Vậy suy ra lượng nợ xấu được xử lý theo Nghị quyết 42 tính từ lúc có hiệu lực (15-8-2017) đến cuối năm 2017 là khoảng 80.000 tỉ đồng (xem bảng).
Như vậy, so với tốc độ xử lý nợ xấu bốn tháng cuối năm 2017 theo Nghị quyết 42, xử lý nợ xấu trong hai quí đầu năm 2018 thực ra đã giảm tốc chứ không phải là đã được thúc đẩy như công bố. Và cũng có thể một phần chính vì điều này mà tỷ lệ nợ xấu nội bảng lại tăng lên vào quí 1-2018 (2,18%) so với cuối năm 2017 (1,99%).
Thực ra, xử lý nợ xấu giảm tốc hoặc không đạt tốc độ như kỳ vọng cũng là điều tất yếu. Theo VAMC, đã có những trở ngại trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 như không có vụ nào trong số 2.000 vụ việc của các cấp tòa án và thi hành án được xử lý theo hình thức rút gọn quá trình tố tụng và xử lý tranh chấp tài sản bảo đảm. Các tài sản bảo đảm là bất động sản dở dang khi VAMC thu giữ hoặc bán chuyển cho chủ đầu tư mới còn vướng mắc về phía hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Mỗi địa phương lại có một cách hiểu, làm khác nhau dẫn tới việc có nơi chuyển giao được nhưng có nơi thì chưa.
Điều đáng nói ở đây là những trở ngại này hoặc là rất khó hiểu theo logic thông thường, hoặc là căn bệnh mãn tính, mang tính hệ thống, xảy ra như với hầu hết mọi vấn đề khác liên quan đến bộ máy nhà nước. Vì thế nên khó mà kỳ vọng nhiều vào những giải pháp “đột phá” ở hiện tại và tương lai trong giải quyết nợ xấu.
Nợ xấu vẫn “ở ẩn”
Tính toán từ số liệu báo cáo (xem bảng) cho thấy tỷ trọng nợ tiềm ẩn thành nợ xấu cộng với nợ xấu bán cho VAMC trên tổng nợ xấu đã giảm đều từ 2016 đến nay - từ 77% tháng 12-2016 xuống 74% tháng 9-2017 và còn 70% tháng 6-2018. Tuy nhiên, mức 70% vẫn còn là quá lớn, cho thấy đa phần nợ xấu vẫn chưa được bộc lộ trên sổ sách, làm cho tỷ lệ nợ xấu (nội bảng) trở nên... đẹp một cách bất hợp lý.
NHNN có đặt ra mục tiêu là phấn đấu đưa tỷ lệ nợ xấu và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng về mức an toàn theo thông lệ quốc tế. Nhưng để theo thông lệ quốc tế thì trước hết cần phải minh bạch hóa nợ xấu, bãi bỏ hạng mục nợ tiềm ẩn thành nợ xấu (kèm đó là sự cho phép giữ nguyên phân loại nợ hoặc hạch toán ngoại bảng để giấu bớt nợ xấu). Thêm nữa, chừng nào VAMC còn mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt thì việc đưa nợ xấu về mức an toàn theo thông lệ quốc tế còn là câu chuyện trong tương lai dài.
(1) http://vietnamfinance.vn/ty-le-no-xau-thuc-te-co-the-len-den-886-20170330083540998.htm
(2) http://www.nhandan.com.vn/baothoinay/baothoinay-kinhte/baothoinay-kinhte-tintuc/item/34774102-den-cuoi-thang-9-2017-ty-le-no-xau-noi-bang-toan-he-thong-chi-la-2-34.html
(3) https://news.zing.vn/ngan-hang-xu-ly-gan-440-ty-dong-no-xau-moi-ngay-post872397.html

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).