Thursday, 31 December 2020

Thành công chưa trọn vẹn (Bài đăng trên TBKTSG, 31/12/2020, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/312226/thanh-cong-chua-tron-ven.html

Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online ngày 21/12/2020 có đăng bài “Singapore mở sàn giao dịch tiền số và chứng khoán số đầu tiên”. Tôi ấn tượng với bình luận của một bạn đọc cho bài viết này, rằng: “Lúc nào cũng đi đầu và đi trước thiên hạ. Singapore quả là đối thủ không thể vượt qua trên lĩnh vực kinh doanh tài chính tiền tệ”. Rồi trước đó, cũng trên cùng tờ báo là tin về Singapore đã biến thành đầu mối logistics khu vực phân phối vaccine phòng Covid-19. Chắc chắn rồi những bứt phá này sẽ củng cố mạnh mẽ hơn nữa tính cạnh tranh (và tức là lợi nhuận thu về) của Singapore trong tương lai.

Ấn tượng không phải bởi lời bình luận hoặc những tin tức này đã chỉ ra đúng là Singapore đã đi trước và đi xa so với thiên hạ. Một cách gián tiếp, lời bình luận và những tin tức này một lần nữa cho thấy rõ ràng trong nguy luôn có cơ và những ai thành công là những người luôn biết nắm bắt cơ hội kể cả trong lúc nguy khốn để bứt phá.

Nhìn lại kinh tế, xã hội Việt Nam trong năm 2020. Điều không thể phủ nhận là Việt Nam đã có một năm về cơ bản là thành công, ở cái nghĩa là đã kiềm chế đại dịch rất thành công, với số người chết là tối thiểu và tránh được những đợt phong tỏa trên diện rộng. Chính vì kiềm chế đại dịch thành công nên nền kinh tế, xã hội cũng vì thế mà ít bị xáo trộn, tác động hơn một cách tương đối so với nhiều nước trên thế giới, vẫn tăng trưởng dương đáng kể, trong khi phần lớn các nước khác buộc phải chứng kiến nền kinh tế của mình bị co thắt mạnh, thậm chí nạn nghèo đói tăng vọt.

Nhưng... chỉ có thế!?  

Từ câu chuyện của Singapore, điều tôi (và chắc không ít bạn đọc sẽ) chợt nhận ra khi nhìn lại Việt Nam trong một năm qua là chúng ta đã mới chỉ thành công trong việc giữ cho mình ít bị tác động, thiệt hại hơn một cách tương đối so với các nước đối tác. Chúng ta đã không thành công khi không biết, không tạo ra, không nắm bắt được những cơ hội, những tiền đề để gặt hái thành công hơn nữa và có tính bền vững trong tương lai từ thành công hiện tại.

Hãy thử điểm lại những gì mà Việt Nam cần, đã có thể phải làm để bứt tốc bền vững và dài hạn thời hậu đại dịch? Rất tiếc là hầu như không có gì nhiều và đáng kể để đề cập ở đây. Cho đến tận thời điểm này mà chúng ta hầu như mới chỉ đang loay hoay với một số ý tưởng và chiến lược (là chiến thuật thì đúng hơn) kiểu như trợ cấp cho ngành hàng không trong nước để tận dụng cơ hội bứt phá trong thời gian tới khi ngành hàng không thế giới bị ảnh hưởng nặng nề và ít cơ hội phục hồi mạnh mẽ; nên coi thành phần kinh tế tư nhân là cái gì... Thời gian trước đó thì “cái gai” (tức mũi nhọn) của nền kinh tế trong thời đại dịch xem ra hầu như chỉ là... sản xuất và xuất khẩu khẩu trang!

Sau rốt, câu hỏi nền kinh tế Việt Nam sẽ có hình hài như thế nào, có “cái gai” nào, đi về đâu... vẫn bỏ ngỏ ở thời hiện tại. Và quan trọng là chúng ta dường như trên thực tế mới dừng lại ở mức “chờ và xem”, chờ đại dịch đi qua, chờ thế giới được tiêm vaccine để phục hồi trở lại, để nhập khẩu nhiều hơn rồi sẽ nâng đỡ nền kinh tế Việt Nam theo kiểu “nước lên thuyền cũng lên”... mà chưa có mấy động thái được “quy hoạch” và tiến hành một cách nhanh chóng, chủ động và rốt ráo.

Tất nhiên là sẽ có những lời biện hộ rằng so sánh với Singapore thì so sánh làm gì, có mấy nước được như họ đâu... Thực tế đúng là như vậy. Nhưng nếu Việt Nam không vượt qua được thực tế này, cũng chỉ “bình bình” như những nước khác thì cũng khó, đừng mong vượt qua được cái gọi là “bẫy thu nhập trung bình”, đừng mong thu hẹp khoảng cách thu nhập với các nước khác, và cần nghiêm túc xem xét lại sự ưu việt của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã, đang và tiếp tục theo đuổi khi mà nó không là bà đỡ cho những ý tưởng bứt phá và môi trường thuận lợi để hiện thực hóa những ý tưởng này.

Thursday, 10 December 2020

Dù có vốn nhà nước cũng không dễ hỗ trợ nếu không muốn... bị kiện! (Bài đăng trên TBKTSG, 10/12/2020)

https://www.thesaigontimes.vn/311516/du-co-von-nha-nuoc-cung-khong-de-ho-tro-neu-khong-muon-bi-kien.html

 Mới đây, khi được hỏi về chuyện hỗ trợ tài chính cho các hãng hàng  không tư nhân nhân việc Vietnam Airlines (VNA) được nhà nước cho vay ưu đãi, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải nói rằng: "Riêng về hỗ trợ tài chính, bây giờ mới là đề xuất của các hãng tư nhân. Hãng hàng không Vietnam Airlines là hãng hàng không quốc gia, xuất phát là doanh nghiệp nhà nước và có vốn Nhà nước. Do đó việc bảo toàn vốn Nhà nước cũng là một khía cạnh để chúng ta xem xét việc hỗ trợ. Còn về các hãng tư nhân, chúng tôi cho là phải đối xử bình đẳng nhưng phải xem xét yếu tố vốn xuất phát từ đâu, và hỗ trợ là hỗ trợ cho hoạt động hàng không bình đẳng" (1).

Theo phát biểu trên, có thể hiểu rằng VNA (từng) là doanh nghiệp nhà nước (DNNN), có vốn nhà nước nên nhà nước (đương nhiên) phải cứu trợ, cho vay ưu đãi. Bởi điểm khác biệt này nên các hãng hàng không tư nhân rất có thể không được hưởng những cứu trợ tài chính tương tự.

Phát biểu trên nếu xét từ góc độ đảm bảo sân chơi bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong nước và với nước ngoài trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết thì có thể đã vi phạm hai nguyên tắc cơ bản liên quan đến vấn đề này.

Thứ nhất là nguyên tắc không được hỗ trợ bằng các điều khoản phi thương mại (tái cấp vốn, cho vay ưu đãi với lãi suất 0% như trong trường hợp của VNA là một dạng hỗ trợ này), vốn có thể làm tổn thương đến doanh nghiệp/quốc gia thành viên khác trong FTA.

Cụ thể, theo điều khoản về DNNN trong Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà Việt Nam là thành viên thì không một nước thành viên CPTPP nào được có những hành động làm tổn thương các nước thành viên CPTPP khác thông qua việc sử dụng các biện pháp hỗ trợ phi thương mại dành cho các DNNN của nước thành viên đó.

Hãy dự liệu đến trường hợp một hãng hàng không ABC nào đó của một nước thành viên CPTPP cũng có đường bay đến Việt Nam hoặc cung cấp dịch vụ tại Việt Nam, và/hoặc là đối thủ cạnh tranh của VNA trên một số đường bay nội địa/quốc tế nào đó cũng đang gặp khó khăn trong và sau đại dịch Covid-19 như VNA. Tuy nhiên, việc VNA được Nhà nước Việt Nam hỗ trợ tài chính (trong khi nước sở tại của ABC thì không) bằng những điều khoản phi thương mại đã làm cho VNA trở nên có lợi thế cạnh tranh một cách bất bình đẳng hơn so với ABC, gây thiệt hại cho ABC về doanh thu và thị phần. ĐIều tiếp theo rất có thể sẽ là ABC sẽ kiện cáo Nhà nước Việt Nam trong khuôn khổ CPTPP, chắc chắn sẽ kéo theo những hậu quả cho VNA nói riêng và Việt Nam nói chung vì đã vi phạm một trong những nguyên tắc cơ bản của CPTPP.

Ngược lại, cũng với kịch bản trên ở cùng nước thành viên CPTPP nơi các hãng hàng không không được hỗ trợ và bị cạnh tranh bởi VNA qua các đường bay đến hoặc cung cấp dịch vụ ở nước thành viên này. Việc VNA nhận được hỗ trợ của nhà nước và trở nên cạnh tranh hơn, gây thiệt hại cho các hãng hàng không của nước sở tại sẽ châm ngòi cho việc các hãng hàng không này khiếu kiện VNA và Chính phủ Việt Nam. Kết quả thì chắc sẽ là những thiệt hại cho phía Việt Nam.

Thứ hai là nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa DNNN và doanh nghiệp phi nhà nước (tư nhân, nước ngoài). Theo Chỉ dẫn của OECD về quản trị DNNN – một tiêu chuẩn quốc tế về cách các Chính phủ quản lý DNNN mà Việt Nam cũng là một bên được tham vấn, thì các Chính phủ phải đảm bảo một sân chơi bình đẳng trên thị trường nơi mà DNNN và doanh nghiệp phi nhà nước cùng cạnh tranh để “tránh làm méo mó thị trường”. Như vậy, “DNNN phải được đối mặt với những điều kiện cạnh tranh trong tiếp cận tài chính”, và “Quan hệ của DNNN với các ngân hàng có vốn nhà nước và các DNNN khác “phải dựa trên cơ sở thương mại thuần túy” (2). Vì nhiều FTA đã và sẽ được xây dựng trên nguyên tắc này nên nếu Việt Nam công khai cứu trợ về tài chính, cho vay ưu đãi VNA mà ít nhất là không cứu trợ các hãng hàng không tư nhân trong nước, cho dù với cái lý do tưởng không thể hợp lý hơn là nhà nước có vốn trong VNA nên phải cứu trợ, thì Chính phủ Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã và đang vi phạm những nguyên tắc thương mại, đầu tư cơ bản được thế giới và chính mình công nhận.    

Lại giả sử tiếp rằng nếu sau này có một doanh nghiệp hàng không EU nào đó muốn thành lập một công ty con, chi nhánh tại Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do giữa EU và Việt Nam (VEFTA) vừa được ký kết, và công ty này phải đối mặt với sự phân biệt đối xử của Việt Nam (ưu đãi dành riêng cho VNA) gây thiệt hại cho hoạt động công ty tại Việt Nam thì khả năng Việt Nam bị kiện bởi công ty này là không thể loại bỏ.  

Ngoài ra, có lẽ trong quan niệm của giới làm chính sách ở Việt Nam thì các doanh nghiệp tư nhân, gồm các hãng hàng không ngoài VNA, vẫn là “thấp cổ bé họng” nên chính sách ban hành ra dù có mang tính phân biệt đối xử thế nào thì cứ ráng chịu chứ không phản kháng được. Cho dù có đúng như vậy nhưng cũng cần lưu ý rằng trong cơ cấu cổ đông của những doanh nghiệp tư nhân này có một tỷ lệ đáng kể là nhà đầu tư nước ngoài – là những nhà đầu tư được hậu thuẫn bởi Chính phủ nước xuất xứ mà rất có thể Việt Nam đã ký kết FTA với họ, ví dụ như VEFTA. Như vậy, họ hoàn toàn có quyền và năng lực kiện cáo Chính phủ Việt Nam đã phân biệt đối xử làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của họ ở Việt Nam. 

Tóm lại, hành động cứu trợ tài chính dành cho VNA dù vì lý do nào chăng nữa cũng là một hành động dễ gây phản kháng nếu những bị hại tiềm năng có thể chứng minh được họ bị ảnh hưởng đáng kể. Nói cách khác, trong thời buổi hiện nay với các ràng buộc từ các FTA đã và sắp ký kết thì Việt Nam cần sớm từ bỏ các quan niệm sai lầm một thời về và chấm dứt các hành động cứu trợ dành cho DNNN mang tính phân biệt đối xử.

(1)    https://cafef.vn/bo-gtvt-noi-ve-viec-hang-bay-tu-nhan-xin-uu-dai-doi-xu-binh-dang-nhung-phai-xem-xet-yeu-to-von-xuat-phat-tu-dau-20201202194223838.chn

(2)    https://www.uscc.gov/sites/default/files/2.15.12drake_testimony.pdf

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).