https://www.thesaigontimes.vn/314381/cach-ly-voi-the-gioi-lam-cho-gia-vang-ngay-cang-ao.html
Sáng 5/2, chênh lệch
giá vàng trong nước và thế giới tiếp tục xu hướng nới rộng trong thời gian qua,
lên mức kỷ lục 8,7 triệu đồng, cao nhất từ trước đến nay.
Do Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) từ nhiều năm nay không cấp giấy phép vàng nhập khẩu vàng nguyên liệu
cũng như ngừng đấu thầu vàng miếng để tăng cung cho thị trường nên nguồn cung
vàng trong nước chủ yếu đến từ việc mua đi bán lại. Trong khi đó, nhu cầu nắm
giữ vàng của người dân không ngừng tăng lên (điều này ít nhất là đúng với nhu cầu
vàng trang sức bởi dân số tăng). Ngoài ra, cầu về vàng còn tăng lên bởi nhu cầu
đầu cơ vàng với tư cách là một tài sản đầu tư/đầu cơ và/hoặc phòng ngừa rủi ro,
đặc biệt khi nền kinh tế có sự biến động lớn bởi những yếu tố trong và ngoài nước.
Với sự bất cân đối
cung cầu như vậy thì giá vàng trong nước đương nhiên sẽ có xu hướng ngày càng
thoát ly, vận động độc lập một các tương đối với giá vàng thế giới theo thời
gian. Điều này được minh chứng bởi “kỷ lục” chênh lệch giá vàng trong nước và
thế giới liên tục bị xô đổ thời gian qua, từ một vài trăm nghìn vài năm trước
đây lên dần lên đến 8,7 triệu đồng như hôm 5/2 và chắc sẽ còn bị xô đổ tiếp
trong thời gian không xa tới.
Còn nhớ tuyên bố
của NHNN từ nhiều năm về trước rằng nếu giá vàng trong nước cao hơn giá vàng quốc
tế khoảng 400.000 đồng/lượng là có dấu hiệu đầu cơ, làm giá v.v... Và nay so
sánh chênh lệch ngày càng tăng giữa giá vàng trong nước-thế giới thời gian qua
với tiêu chuẩn này, cũng như trồi sụt mạnh của giá vàng trong nước thì có thể
thấy tuyên bố mới đây của NHNN rằng “tại thị trường trong nước, giá vàng trong
những năm qua không còn nhảy múa, không ảnh hưởng đến giá hàng hoá và tỉ giá“
không còn hoàn toàn đúng nữa. Lưu ý thêm rằng, viện lý do này NHNN đã kiên định
với chính sách quản lý vàng của mình được thể hiện qua Nghị định 24.
Câu hỏi đặt ra ở
đây là nếu NHNN kiên định không cho nhập khẩu vàng, làm cho giá vàng trong nước
ngày càng ly khai (và cao hơn) giá vàng thế giới thì điều gì sẽ xảy ra, và hậu
quả nào cho nền kinh tế?
Trước tiên, hãy
hình dung vàng trong nước như Bitcoin. Hai tài sản này có sự tương đồng ở chỗ
nguồn cung ngày càng hạn hẹp còn nhu cầu thì có xu hướng gia tăng. Với Bitcoin,
tổng số Bitcoin có thể đào được là 21 triệu đồng. Hiện số Bitcoin còn lại có thể
đào là dăm bảy triệu đồng gì đó nhưng độ khó và chi phí đào ngày càng tăng lên,
làm cho “giá thành” đồng tiền ảo này cũng không ngừng tăng lên. Dẫu vậy, người
ta vẫn tiếp tục đào Bitcoin bất chấp hóa đơn tiền điện ngày càng tăng chóng mặt
chừng nào mà giá Bitcoin vẫn leo thang và đứng ở mức cao như hiện nay. Đây
chính là nguyên nhân mà một số nơi như ở Trung Quốc đã phải cấm đào Bitcoin vì
quá tốn điện (để đổi lấy tài sản “ảo”).
Tương tự như vậy
là thị trường vàng trong nước. Do NHNN kiên quyết không cho nhập khẩu vàng
nguyên liệu từ thế giới có giá thành rẻ hơn, nguồn cung vàng gia tăng chỉ có thể
đến từ việc khai thác/đào vàng trong các mỏ vàng trong nước, tất nhiên ngoài
nguồn... nhập lậu! Nhưng nguồn cung từ các mỏ vàng trong nước cũng rất hạn chế,
với dự trữ và sản lượng ngày càng nhỏ và chi phí khai thác ngày càng tăng lên
tính trên một đơn vị vàng vật chất được khai thác/đào ra.
Như vậy, tác động/hậu
quả đầu tiên là sự phân bổ ngày càng lệch lạc và lãng phí một nguồn lực xã hội
vào khai thác cùng một loại tài sản “ảo” như Bitcoin hoặc vàng vốn được dùng
nhiều cho mục đích đầu cơ, đầu tư và phòng ngừa rủi ro. Nói cách khác, nếu thị
trường vàng trong nước tiếp tục bị đóng cửa với thế giới thì các nguồn lực hữu
hạn trong nền kinh tế sẽ tiếp tục bị kéo ra khỏi khu vực sản xuất thiết yếu để
đổ một cách lãng phí vào ngành đào vàng phục vụ các nhu cầu ảo không mong muốn,
trong bối cảnh nguồn nhập khẩu với chi phí rẻ hơn thì bị cấm.
Tác động thứ hai
của sự cách lý giá vàng trong nước và thế giới cũng là một sự lãng phí ở dưới dạng
thức khác. Như đã đề cập, ngoài nguồn cung do đào vàng trong nước, nhập lậu
vàng cũng là một nguồn cung khác cho thị trường vàng trong nước. Ngoài chuyện tốn
USD để nhập khẩu vàng, vốn là điều bình thường, điều bất bình thường ở đây là, do
phải nhập lậu nên đương nhiên số USD cần bỏ ra để chuyển lậu và đưa cùng một lượng
vàng vật chất về nước chót lọt qua bao nhiêu “cửa” sẽ phải tăng vọt lên so với
nhập khẩu chính ngạch/hợp pháp.
Như vậy, một nguồn
lực hữu hạn khác của nền kinh tế lại phải bỏ ra một cách lãng phí để đáp ứng
cùng một nhu cầu về vàng của người dân trong nước. Nói cách khác, tưởng rằng sẽ
là tốt khi cấm nhập khẩu vàng vì không phải tốn USD để nhập khẩu nhưng rốt cuộc
một lượng USD đáng kể vẫn sẽ chảy ra nước ngoài bằng cách này hay cách khác.
Trong khi đó, nếu để thị trường vàng trong nước liên thông với thế giới thì nhà
chức trách hoàn toàn có thể dùng vàng trong nước để chuyển đổi ra USD khi cần
tăng nguồn cung USD trong nước, và ngược lại, một cách dễ dàng. Xin đừng quên rằng
vàng cũng là USD, cần phải dùng USD để mua vàng thì, ngược lại, cũng có thể
dùng vàng để mua lại USD “trong một nốt nhạc”, nên nguồn lực ngoại hối chẳng
hao hụt đi đâu cả để phải lo sợ rằng nhập khẩu vàng sẽ chảy máu USD.
Tác động thứ ba
là sự ly khai với thế giới làm cho vàng trong nước trở thành một tài sản “ảo”,
tăng giá kiểu bong bóng và xẹp xuống bất chừng không theo một nguyên tắc, quy
luật có thể đoán định, lý giải nào cả. Kèm
theo đó là rủi ro đổ vỡ trong hệ thống tài chính, ngân hàng và cả nền kinh tế
cùng một cách như các thị trường khác (chứng khoán, bất động sản...) gây ra khi
chúng xì hơi.
Có điều lạ là cơ
quan chức năng thường rất tích cực ra cảnh báo mỗi khi có (dấu hiệu) một cơn sốt
tài sản ảo/thật nào đó nhưng dường như lại bỏ qua hay xem nhẹ tác động của việc
để giá vàng trong nước tăng một cách quá ảo (so với thế giới). Trên góc độ này,
dù cũng là cực đoan nhưng hành động tìm cách can thiệp để giảm đầu cơ vàng từ
nhiều năm trước đây của NHNN mỗi khi có sự chênh lệch trên 400.000 đồng/lượng
vàng lại tỏ ra hợp lý hơn là hành động cách ly thị trường vàng trong nước với
thế giới.
Trên hết, tính hữu hiệu và hậu quả của việc cấm nhập khẩu vàng có thể nhìn rõ hơn qua những ví dụ thực tế về việc cấm/hạn chế nhập khẩu một loại hàng hóa nào đó vào Việt Nam từ thế giới, để rồi kết cục thường là phải dỡ bỏ, tự do hóa hoặc hạ thấp rào cản lên sự nhập khẩu này.
No comments:
Post a Comment