Thursday, 4 March 2021

Khi… nghe chuyên gia nước ngoài (Bài đăng trên TBKTSG số 9-2021, 25/2/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/314010/tbktsg-so-9-2021-doc-duong-chuyen-doi-so.html

Tại Việt Nam từ trước đến nay, như một điều không thể khác, các nhận định, đánh giá của giới đầu tư nước ngoài như các ngân hàng, tổ chức tài chính về các vấn đề liên quan đến tài chính, tiền tệ, tỷ giá, và chứng khoán luôn có sức ảnh hưởng nếu không muốn nói là rất lớn, đôi khi gây ra biến động quá mức cho các thị trường của Việt Nam. Cũng không cần phải nói rằng cũng có nhiều nhà đầu tư trong nước có xu hướng ra quyết định đầu tư “ăn theo” các hành động của nhà đầu tư nước ngoài vì tin rằng họ luôn đúng và biết rõ thị trường Việt Nam (vì có trình độ, kinh nghiệm, và... thông tin).

Tuy nhiên, nếu chịu khó quan sát, phân tích thì sẽ thấy nhiều khi các đánh giá, nhận định của các tổ chức nước ngoài là khá hời hợt, phiến diện, và sai lầm. Điều này không chỉ làm bóp méo thị trường mà còn gây ra những tổn thất lớn cho các nhà đầu tư trong nước, cũng như cho nền kinh tế nói chung.

Chẳng hạn, trong một bản tin gần đây trên CNBC (1), một chuyên gia quản lý tài sản toàn cầu của một ngân hàng quốc tế lớn một mặt giành những lời khen ngợi có cánh cho Việt Nam, nào là triển vọng kinh tế của Việt Nam là tích cực, và có rất nhiều tiềm năng, nào là “Việt Nam là một thị trường mà chúng tôi ưa thích” v.v... Mặt khác, vị này tất nhiên là không quên cảnh báo các rủi ro với các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam.

Cụ thể, có hai rủi ro chính được đề cập. Thứ nhất là rủi ro về “thanh khoản”.  Và rủi ro thứ hai mà vị này cảnh báo, theo bản tin thuật lại, là việc các cơ quan chức năng Việt Nam thường sử dụng kiểm soát tiền tệ như là một lựa chọn cho chính sách tiền tệ. Theo đó, “nếu nền kinh tế gặp trục trặc thì họ thường sẽ phá giá mạnh tiền đồng chỉ để kích thích nền kinh tế”. Bản tin còn trích dẫn chuyện Mỹ gắn nhãn thao túng tiền tệ cho Việt Nam năm ngoái như để minh họa cho nhận định về sự “thích” phá giá này của Việt Nam của vị chuyên gia (không rõ đây có phải là sự trích dẫn ý kiến của vị chuyên gia này không).

Về rủi ro thứ nhất, thanh khoản, bản tin chỉ cho biết vị chuyên gia nói rằng “thanh khoản vẫn là một thách thức chủ yếu”. Vì không có thêm chi tiết nên không rõ thanh khoản mà vị chuyên gia đề cập ở đây là của cái gì. Tiền đồng? Ngoại tệ? Không thể vay được từ ngân hàng hay các công ty tài chính? Các ngân hàng đang khô khát thanh khoản...?                    

Nhưng dù là của cái gì chăng nữa thì rõ ràng ở thời điểm hiện tại (và cả trong năm trước, cũng như trong thời gian sắp tới) những rủi ro liên quan đến thanh khoản nói trên là không phải là một vấn đề lớn, xét một cách toàn diện và công bằng. Thanh khoản tiền đồng vẫn đang dồi dào, như được thể hiện ở lãi suất huy động đứng ở mức thấp và vẫn có xu hướng giảm đi. Tương tự như vậy là ngoại tệ cũng như thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.

Như vậy, có thể thấy ngay cảnh báo về rủi ro thanh khoản của vị chuyên gia “Tây” này là rất không chính xác và không... đúng lúc!

Về rủi ro thứ hai, cũng không khó để thấy vị chuyên gia này có sự hiểu biết không thấu đáo về Việt Nam. Chí ít bởi nếu là người am hiểu về tình hình Việt Nam thì sẽ thấy được rằng thực ra Việt Nam đã có nhiều năm liền luôn nỗ lực và rất vất vả chống đỡ lại áp lực gây mất giá của tiền đồng, chứ không phải ngược lại. Sự mất giá của tiền đồng so với USD cho đến nay, nếu có, chủ yếu là do Việt Nam đã từng không có đủ tiềm lực (dự trữ ngoại hối quá mỏng) để chống lại áp lực phá giá tiền đồng như là kết quả phối hợp của nhiều yếu tố bất ổn vĩ mô, gồm thâm hụt thanh khoản thương mại, lạm phát cao, và thâm hụt ngân sách nới rộng.

Bởi vậy, dù tin hay không tin vào lời khẳng định của Chính phủ nói chung và của Ngân hàng Nhà nước nói riêng rằng Việt Nam không phá giá tiền đồng để đạt lợi thế thương mại thì sự thực vẫn là việc phá giá tiền đồng (để tiền đồng yếu đi so với USD) luôn là điều không được mong muốn của các cơ quan chức năng Việt Nam trong suốt nhiều năm qua, nếu họ có lựa chọn. Một phần của lý do cho điều này là bởi nỗi lo ngại của họ về việc phá giá tiền đồng sẽ dẫn đến bất ổn vĩ mô (lạm phát), là điều đã trở nên ưu tiên hàng đầu từ nhiều năm khi Việt Nam luôn phải sống chung với lạm phát thậm chí từng có năm vọt lên đến cả trăm phần trăm.

Tóm lại, nếu tin vào những nhận định, đánh giá không thỏa đáng trên của chuyên gia nước ngoài thì nhà đầu tư trong và ngoài nước chỉ thấy được một bức tranh méo mó về kinh tế Việt Nam để rồi có những quyết định đầu tư (hoặc không) sai lầm. Nói cách khác, giá trị của những nhận định, đánh giá của chuyên gia và tổ chức nước ngoài vẫn luôn là điều bỏ ngỏ.           

(1) https://www.msn.com/en-sg/money/markets/vietnam-grew-faster-than-china-last-year-and-ubs-says-its-economy-still-has-huge-potential/ar-BB1dyqmr?ocid=msedgntp

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).