Monday, 22 March 2021

Tiền số với chủ quyền quốc gia (Bài đăng trên TBKTSG, 21/3/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/314618/tien-so-voi-chu-quyen-quoc-gia.html

Một số nước hiện nay đang nghiên cứu hoặc đã phát hành đồng tiền số ngân hàng trung ương (viết tắt là CBDC) của mình. Đồng Sand Dollar của quốc đảo Bahamas là đồng tiền CBDC đầu tiên trên thế giới được đưa vào lưu thông.

Trung Quốc thì đang tích cực triển khai thí điểm đồng nhân dân tệ số để kịp sử dụng rộng rãi trong dịp Olympic mùa đông 2022. Thụy Điển có thể là nước tiếp theo triển khai tiền số. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Nhật tuy chưa có kế hoạch cụ thể nào về CBDC nhưng đã nhận định rằng nhu cầu CBDC của dân chúng có thể tăng vọt. Còn ở Mỹ thì Bộ trưởng Tài chính Yellen cho rằng đồng đô la số là “rất đáng để xem xét”.

Điều đáng nói, vì là tiền số nên CBDC hoàn toàn có thể được sử dụng cho các giao dịch ngoài biên giới quốc gia, với trung gian là ngân hàng trung ương của các nước có CBDC tương ứng được người dân nắm giữ, chứ không phải là qua các ngân hàng thương mại như truyền thống.Với xu hướng gia tăng về sự quan tâm cũng như số lượng đồng tiền số đã và sẽ được phát hành, phổ cập rộng rãi trên thế giới, đến một ngày không xa - có khả năng là vào cuối thập niên này, người ta sẽ chứng kiến một hiện thực là trong ví điện tử được cài đặt trên điện thoại thông minh của mỗi người dân sẽ cùng lúc chứa vài loại CBDC khác nhau.

Do dễ dàng trong sử dụng và lưu thông nên CBDC hoàn toàn có thể thay thế đồng tiền quốc gia, đặc biệt khi đồng nội tệ chưa được số hóa. Điều này đặt ra một vấn đề thách thức với chủ quyền quốc gia tương tự như nạn đô la hóa nền kinh tế nội địa, thậm chí ở mức độ lớn hơn và quy mô rộng hơn do tính ưu việt và sự thuận tiện của tiền số.

Một phản ứng chính sách dễ dãi để bảo vệ nội tệ, bảo vệ chủ quyền tiền tệ sẽ là sự cấm đoán người dân sử dụng CBDC của các nước khác, cũng như mọi loại tiền mã hóa, tiền ảo... trong thanh toán.

Tuy nhiên, đối tượng giao dịch bằng các CBDC của người dân trong nước là các ngân hàng trung ương thế giới. Ngân hàng trung ương nước sở tại không có quyền và cách thức gì can thiệp và chế tài như họ làm với hệ thống ngân hàng thương mại nội địa gồm cả chi nhánh/ngân hàng con của ngân hàng thương mại nước ngoài.

Do vậy, dù có bị cấm đoán thì CBDC vẫn hoàn toàn có thể được sử dụng trong nước một cách dễ dàng mà khó có thể bị kiểm soát, theo dấu bởi cơ quan chức năng nước sở tại.

Thay vì cấm đoán, điều mà ngân hàng trung ương sở tại có thể làm để bảo vệ chủ quyền tiền tệ của mình một cách hữu hiệu hơn là: một mặt, phát hành CBDC riêng của mình để theo kịp trào lưu thế giới; mặt khác, ngân hàng trung ương sở tại cần làm cho CBDC của mình trở nên hấp dẫn hơn, có tính cạnh tranh với các CBDC khác, và kể cả các loại tiền mã hóa khác do các chủ thể phi nhà nước phát hành như Diem của Facebook - một loại tiền số có giá trị ổn định (stablecoin) do được gắn giá trị với các loại tiền tệ chủ chốt trên thế giới.

Để tăng tính hấp dẫn cho CBDC, ngân hàng trung ương cần đảm bảo khả năng xử lý số lượng giao dịch lớn một cách nhanh chóng nhất, chi phí thấp nhất, và thông suốt trong toàn hệ thống. Ngoài ra, ngân hàng trung ương cũng cần đảm bảo với người sử dụng về tính riêng tư trong các giao dịch hàng ngày.

Một trong những thách thức chính cho ngân hàng trung ương trong nỗ lực làm cho CBDC của mình trở nên hấp dẫn và cạnh tranh hơn là việc lựa chọn đúng công nghệ. Chất lượng và khả năng xử lý của các loại điện thoại thông minh là khác nhau nên nếu công nghệ được lựa chọn không phù hợp thì sẽ mất đi một số lượng người sử dụng nhất định, đồng nghĩa với việc loại bỏ họ ra khỏi cuộc chơi tiền số. Điều này cũng có nghĩa là hạn chế việc phổ cập và đạt được sự ưa thích đối với CBDC của quốc gia trong dân chúng.

Thách thức thứ hai là chi phí giao dịch. Với những giao dịch giá trị nhỏ, chúng sẽ khó có thể được thực hiện thành công nếu chi phí cần có liên quan đến năng lực tính toán trong xử lý và xác nhận giao dịch trong hệ thống phi tập trung trở nên quá cao.

Một thách thức khác cho việc phổ biến và bảo vệ tiền số quốc gia đến từ sự cạnh tranh của các hệ thống thanh toán do các chủ thể phi nhà nước sở hữu như PayPal, Venmo và Stripe. Trước thách thức mang lại từ CBDC (do giao dịch bằng CBDC diễn ra trực tiếp với ngân hàng trung ương mà không cần trung gian là các hệ thống này), các hệ thống thanh toán này cũng tự vệ bằng cách chấp nhận và tích hợp CBDC vào hệ thống của mình. Điều này càng làm cho việc sử dụng CBDC của nước ngoài trong lãnh thổ quốc gia trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.

Trước những xu hướng tất yếu và thách thức như trên, ngân hàng trung ương các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển cần thay đổi nhận thức, chuyển vị thế của mình từ một “ông chủ tiền tệ” sang thành một “nhà cung cấp dịch vụ” với hy vọng người dân trong nước sẽ chấp nhận và yêu thích đồng nội tệ số quốc gia.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).