Wednesday 23 February 2022

Sốt đất: “tội đồ” và giải pháp (Bài đăng trên KTSG, 23/2/2022, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/sot-dat-toi-do-va-giai-phap/

Trước tiên xin bàn đến vế sau trong vấn đề trên – giải pháp trị sốt đất, vì qua đó sẽ thấy một phần của nguyên nhân gây ra sốt đất.

Nếu chiểu theo các văn bản của các cơ quan hữu trách thì thấy “trị” sốt đất thật ra rất dễ, đơn giản.

Theo Bộ Xây dựng, đầu năm 2021 đã xảy ra hiện tượng tăng giá đột biến, thậm chí "sốt giá" đất nền tại một số địa điểm ở một số địa phương. Tuy nhiên, hiện tượng tăng giá đất nền nóng cục bộ cũng nhanh chóng hạ nhiệt sau khi Chính phủ, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường có các văn bản chỉ đạo để chính quyền địa phương kịp thời đưa ra các thông báo cảnh báo (1).

Giả sử đúng như báo cáo trên là cơn sốt đất từ đầu năm 2021 đã nhanh chóng bị dập tắt. Cũng theo báo cáo trên, giải pháp dập sốt đất trong thời gian qua chỉ là, Chính phủ, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo để chính quyền địa phương “kịp thời” đưa ra các thông báo cảnh báo.

Tóm lại, phương pháp dập sốt đất là chính quyền cấp trên dùng văn bản chỉ đạo để chính quyền cấp dưới dùng lời lẽ cảnh báo ra thị trường.

Lại giả sử rằng đúng là thị trường đã “biết sợ” các lời lẽ cảnh báo của chính quyền địa phương mà thôi sốt. Câu hỏi đặt ra là Chính phủ, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên Môi trường quản lý thế nào mà chỉ sau khi phải ra văn bản chỉ đạo thì chính quyền địa phương mới đưa ra các thông báo cảnh báo? Và tại sao chính quyền các địa phương không chủ động, kịp thời có các giải pháp dập sốt đất “ngay và luôn”? Nên nhớ rằng chính quyền địa phương nói ở đây cũng bao gồm cả các nhánh của ngay các cơ quan Chính phủ, và cơ quan quản lý theo ngành dọc gồm cả các Sở/Phòng Xây dựng, Sở/Phòng Tài nguyên và Môi trường ở các tỉnh, huyện, xã trên cả nước.

Thêm một dấu hiệu của sự tắc trách, bất lực của cơ quan quản lý trung ương được thể hiện ngay trong báo cáo trên của Bộ Xây dựng. Theo đó, “thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã có văn bản số 5370/BXD-QLN ngày 24/12/2021 gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương yêu cầu tổng hợp báo cáo tình hình đấu giá đất, đánh giá tình hình, nguy cơ xảy ra bong bóng bất động sản,... đồng thời khẩn trương thực hiện các giải pháp để ổn định thị trường”.

Rõ ràng là Bộ Xây dựng đã không biết làm gì ngoài việc đợi chỉ đạo của Thủ tướng, và khi có chỉ đạo rồi (sau cả một năm trời) thì cũng chỉ biết đá quả bóng trách nhiệm cho các địa phương trong việc tự biết  mà đưa ra và thực hiện các giải pháp “ổn định thị trường”. Chẳng nhẽ vai trò của bộ chỉ là liên lạc viên?

Như vậy, có thể chỉ ra ngay một phần gốc rễ của cơn sốt đất được cho là đã bị dập hiện nay chính là phản ứng chậm chễ, thiếu trách nhiệm, yếu năng lực của cả bộ máy quản lý từ trung ương đến địa phương, thậm chí cả lợi ích nhóm khi để xảy ra sốt đất.

Điều đáng nói nữa là có lẽ là quá sớm để Bộ Xây dựng cho rằng sốt đất đã nhanh chóng hạ nhiệt. Ví dụ với đất nền, bản thân báo cáo trên cũng thừa nhận giá đất nền tiếp tục tăng so với quý trước “tại một số địa phương”. Và bộ này cũng phải dự báo về một cơn sốt mới trong năm 2022.

Điều gì sắp xảy ra để Bộ Xây dựng phải cảnh báo vậy? Đó chính là, trích từ báo cáo trên: “Đặc biệt, khi Nhà nước sử dụng các giải pháp kích cầu, hỗ trợ phục hồi kinh tế sau giai đoạn giảm phát cũng có thể tác động làm thị trường bất động sản phát triển nóng nếu không được kiểm soát tốt”.

Do đó, nguyên nhân sâu xa của các cơn sốt đất trước đây, hiện nay và sắp đến, cũng được ngay cơ quan quản lý thừa nhận, chính là nguồn tiền quá dư thừa trong nền kinh tế mà Chính phủ đã không thể kiểm soát được và để chúng chảy mạnh vào bất động sản. Kèm thêm vào đó, như đã phân tích ở trên, là sự yếu kém, thiếu trách nhiệm (và có thể cả lợi ích nhóm) từ chính quyền các cấp trong việc kiểm soát tình hình khi sốt đất đã nổ ra.

Nếu đã nhìn nhận được nguyên nhân sâu xa xảy ra sốt đất như vậy thì giải pháp cũng đơn giản là cứ theo thế mà làm. Cụ thể, nếu có kích cầu, hỗ trợ phục hồi kinh tế thì phải kích và hỗ trợ đúng chỗ, đúng mục tiêu, và đúng liều lượng. Chỉ cần sai sót ở một trong những yếu tố này thì sẽ có dòng tiền “lạc” vào bất động sản (hoặc các tài sản đầu cơ khác như chứng khoán).

Tất nhiên vấn đề mà nhiều người sẽ đặt ra là làm thế nào để làm vừa đúng, vừa trúng, vừa đủ. Vấn đề này không thể trả lời được và cũng không thuộc phạm vi bài viết này. Nhưng cũng phải thừa nhận là rất khó để làm được như vậy, nếu cứ nhìn từ thực tế các nước đã và đang áp dụng các biện pháp kích cầu, như Mỹ chẳng hạn. Nên cơn sốt đất sẽ có nguy cơ tiếp diễn kéo dài, chứ không phải là lại xảy ra mới trong năm nay như Bộ Xây dựng báo cáo/dự đoán.

Không ít người cũng sẽ đặt câu hỏi tại sao không áp dụng các biện pháp căn cơ và mạnh tay như đánh thuế bất động sản. Điều này thực ra không chỉ không hoàn toàn có hiệu quả như ý muốn trong việc ngăn chặn sốt đất, như kinh nghiệm nhiều nơi trên thế giới cho thấy. Chẳng hạn như ở Singapore, Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp gồm thuế, phí, tín dụng... nhưng rốt cuộc giá bất động sản nhà ở vẫn cứ tăng vọt trong vòng 2 năm qua, đặc biệt là quý 4/2021 (2). Và một điều quan trọng nữa là dù có áp dụng thì điều này sẽ không xảy ra sớm ở Việt Nam ngay trong năm nay hoặc thậm chí năm sau, do hiệu quả của quy trình làm luật ở Việt Nam.

Nói vậy để thấy nguyên nhân sốt đất không có gì là bí hiểm, còn giải pháp chữa sốt đất thì lại không dễ như cách mà người ta đang nói đến. Nhưng nếu chỉ muốn ngăn ngừa sốt đất xảy ra (và bỏ qua các mục tiêu khác) thì giải pháp căn cơ nhất vẫn phải là đừng bao giờ để tiền chảy quá nhiều vào nền kinh tế so với khả năng hấp thụ của nền kinh tế thực.  

------------  

(1) https://cafef.vn/con-sot-dat-dien-cuong-nhanh-chong-bi-dap-tat-20220210165925362.chn

(2) https://tradingeconomics.com/singapore/housing-index

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).