Tuesday 30 August 2022

Một góc nhìn khác về tình hình nợ công (Bài đăng trên KTSG, 25/8/2022, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/mot-goc-nhin-khac-ve-tinh-hinh-no-cong/ 

Bản tin nợ công số 14 của Bộ Tài chính cho thấy một bức tranh rất khả quan về tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay (1). Theo đó, nợ công của Việt Nam giai đoạn 2017-2021 đã giảm rất mạnh, từ mức 61,4% GDP năm 2017 xuống còn 43,1% GDP năm 2021.

Song song với đó là nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương cũng giảm mạnh. Cụ thể, nợ Chính phủ giảm từ 51,7% GDP năm 2017 xuống 39,1% năm 2021. Nợ Chính phủ bảo lãnh giảm tương ứng từ 9,1% GDP xuống 3,8% GDP, và nợ chính quyền địa phương từ 1,1% GDP xuống còn 0,6% GDP.

Thực tế có thật sự “đẹp” như những con số thống kê trên cho thấy không?

Tỷ lệ nợ công trên GDP năm 2021 thực tế có thể đã không giảm nhanh và mạnh như vậy  

Sự giảm mạnh về nợ công chủ yếu diễn ra trong năm 2021. Cụ thể hơn, nợ công giảm từ 61,4% GDP năm 2017 lần lượt xuống còn 58,3%, 55%, 55,9% và 43,1% GDP trong các năm sau đó cho đến năm 2021. Có thể thấy, nợ công trong các năm 2018, 2019, 2020 chỉ giảm độ 1 đến 3 điểm phần trăm mỗi năm, nhưng lại lao dốc, giảm tới gần 13 điểm phần trăm riêng trong năm 2021 so với năm trước đó (2020) và lên đến 18,3 điểm phần trăm nếu so với năm đầu kỳ (2017).    

Điều “thần kỳ” gì đã xảy ra năm 2021 để kéo tụt nợ công nhanh và mạnh đến như vậy?

Để tìm câu trả lời cho câu hỏi này, hãy bắt đầu từ giá trị tuyệt đối của nợ công. Dư nợ của nợ công bằng tiền đồng đã tăng từ 2,587 triệu tỷ đồng năm 2017 lên 3,283 triệu tỷ đồng.

Trong cùng kỳ, theo số liệu GDP theo giá thực tế (đã điều chỉnh mạnh, làm tăng GDP hàng năm từ 2010 lên trên 25% so với trước khi điều chỉnh) của Tổng cục Thống kê thì GDP của Việt Nam năm 2017 là 6,294 triệu tỷ đồng, tăng lên đến 8,480 triệu tỷ đồng năm 2021. Từ đây suy ra tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam theo giá thực tế là 41,1% năm 2017 và giảm nhẹ xuống còn 38,7% năm 2021.

Ngoài chuyện GDP theo giá thực tế tăng lên giúp làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP, một nhân tố khác góp phần kéo giảm tỷ lệ này trong năm 2021 là sự chững lại của dư nợ nước ngoài, được duy trì hầu như không đổi ở mức trên 46 tỷ đô la Mỹ một chút vào năm 2021 so với năm 2017.

Do vậy, dù có sử dụng GDP thực tế thì cũng không thể cho ra được con số phản ánh mức sụt giảm mạnh đến mức thần kỳ về nợ công như báo cáo của Bộ Tài chính. Nói cách khác, nợ công năm 2021 giảm nhanh và mạnh như báo cáo của Bộ Tài chính rất có thể chỉ là kết quả của sự tính toán không chính xác (đã từng xảy ra trước đây và đã được tác giả chỉ ra), chứ không có chuyện nợ công đã giảm một cách thần kỳ trong năm 2021 như đã nêu.

Quan trọng hơn là khả năng trả nợ   

Nợ công tuy được cho là đã giảm mạnh nhưng sự giảm này chính xác là sự giảm của nợ công so với GDP. Chứ còn nếu so với các chỉ số phản ánh khả năng trả nợ như kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và đặc biệt là thu ngân sách nhà nước thì nợ công lại không hề giảm, thậm chí còn tăng lên trong cùng giai đoạn.

Cụ thể hơn, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia (bao gồm nợ công) so với kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2017-2021 lần lượt là 6,1%, 7,0%, 5,9%, 5,7% và 6,2%. Như vậy, nếu so với kim ngạch xuất khẩu thì nghĩa vụ trả nợ nước ngoài (gồm nợ công) đã tăng nhẹ từ 6,1% năm 2017 lên 6,2% năm 2021.

Trong cùng giai đoạn, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách qua các năm lần lượt là 19,7%, 17,1%, 17,4%, 21,2% và 21,8%. Nên cũng có thể thấy rõ rằng gánh nặng nợ công thực sự đã tăng lên đáng kể nếu so với quy mô của thu ngân sách nhà nước, với tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách tăng từ 19,7% năm 2017 lên 21,8% năm 2021.

Từ hai chỉ tiêu phản ánh quy mô thực sự của nợ công nói trên, càng thấy rõ sự bất ổn của con số thống kê về GDP đã điều chỉnh được dùng để phản ánh quy mô nợ công của Việt Nam so với thế giới. Dù biện minh kiểu gì chăng nữa, và dù GDP có “vươn mình” chỉ qua một đêm nhờ việc “điều chỉnh” thì thực tế vẫn là thu ngân sách hàng năm, là con số không thể “điều chỉnh” như GDP, và là nguồn để chi trả gốc và lãi của nợ công, đã không tăng lên kịp với đà tăng của nợ công để rồi Chính phủ ngày càng phải phụ thuộc vào vay nợ mới để trả nợ và lãi vay cũ.

Hàm ý

Tình hình nợ công của Việt Nam trong các năm qua có được cải thiện hay không là tùy vào góc nhìn và số liệu thống kê dùng làm cơ sở. Tuy nhiên, theo cách tính lạc quan nhất, sử dụng chỉ tiêu so sánh là GDP đã bị điều chỉnh mạnh ở Việt Nam, vốn vẫn còn nhiều tồn tại gây tranh cãi, thì nợ công của Việt Nam cũng chỉ được cải thiện một cách khá khiêm tốn trong thời gian qua (từ 41,1% năm 2017 xuống 38,7% năm 2021), chứ không có chuyện giảm “sốc” đến mức thần kỳ như báo cáo của Bộ Tài chính.

Còn theo cách tính toán có tính thuyết phục hơn, đặc biệt khi lấy nghĩa vụ trả nợ Chính phủ so với thu ngân sách, thì sẽ thấy được một bức tranh khá ảm đạm về tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay, chỉ ra sự phụ thuộc ngày càng tăng của Chính phủ  vào vay nợ mới để trả nợ hiện tại (nghĩa vụ trả nợ Chính phủ/thu ngân sách tăng từ 19,7% năm 2017 lên 21,8% năm 2021).    

Từ hiện thực này, điều rút ra là cần tuyệt đối không được chủ quan với ý niệm rằng nợ công của Việt Nam đã giảm mạnh để rồi thoải mái vay nợ trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy đầu tư vào và chi tiêu nhằm đạt được mục đích này kia như khuyến cáo của một số chuyên gia và giới chức hiện nay.

------

https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?dDocName=MOFUCM241517 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).