Sunday 22 January 2023

Chuyển đổi số là bệ đỡ cho tăng trưởng kinh tế nhanh (Bài đăng trên tạp chí Thông tin & Truyền thông, ngày 22/1/2023)

https://ictvietnam.vn/chuyen-doi-so-la-be-do-cho-tang-truong-kinh-te-nhanh-55120.html

Nhân dịp Năm mới 2023, Phóng viên Tạp chí Thông tin và Truyền thông có bài phỏng vấn Chuyên gia kinh tế Phan Minh Ngọc - Tư vấn cấp cao, Bondcritic (Singapore)  về Chuyển đổi số và Tăng trưởng kinh tế.

Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về vai trò của chuyển đổi số trong thúc đẩy phát triển kinh tế?

TS. Phan Minh Ngọc: Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên của những đổi mới công nghệ thú vị. Các công nghệ số và sự chuyển đổi số đang tạo ra những đổi thay to lớn. Những bước tiến mới nhất trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) và các phát minh, sáng tạo liên quan đang giúp mở rộng biên giới của cuộc cách mạng số.

Chuyển đổi số - sự ứng dụng các mô hình kinh doanh trực tuyến (online) và sự chuyển dịch chung các hoạt động kinh tế và xã hội sang hình thức online, được đặc biệt đẩy mạnh trong thời dịch COVID-19 - đã làm thay đổi cách thức vận hành của các nền kinh tế, cách thức tiến hành kinh doanh, và cách thức tương tác xã hội. Việc khai thác dữ liệu đã tạo điều kiện cho sự ra đời các thành phố thông minh mới cũng như mô hình mới của nền kinh tế hoạt động trên nền tảng là dữ liệu. Tương lai đang xảy đến nhanh hơn dự tính.

Chuyển đổi số còn mở ra các cơ hội mới cho hợp tác quốc tế để thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng cho kỷ nguyên công nghiệp, tận dụng được các thị trường mới tạo ra bởi các nền tảng số và đẩy mạnh khai thác các dịch vụ được cung ứng nhanh chóng hơn nhờ các công nghệ thông minh.

Trên phạm vi thế giới, chuyển đổi số ngày càng trở nên một động cơ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và bền vững, với ước tính trên 30% GDP sẽ phụ thuộc vào các công nghệ số vào năm 2030.

Theo ông, tác động của chuyển đổi số lên kinh tế Việt Nam năm 2023 và những năm tới sẽ như thế nào?

TS. Phan Minh Ngọc: Các công nghệ mới và việc chuyển sang ứng dụng rộng rãi chúng trên các mặt kinh tế và xã hội hứa hẹn những lợi ích to lớn thông qua những cơ hội và kênh truyền dẫn mới tạo ra. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào cũng tham gia thành công vào công cuộc đổi mới sáng tạo và trào lưu chuyển đổi số của thế giới. Nhiều nước đã bị bỏ lại phía sau và sự tụt hậu này diễn ra ở nhiều ngành nghề, doanh nghiệp, lực lượng lao động và các giai tầng xã hội.

Chưa có một nghiên cứu đánh giá sâu rộng và toàn diện về xu hướng chuyển đổi số và tác động của nó lên nền kinh tế và xã hội của Việt Nam trong những năm qua để nêu bật được vai trò thiết yếu của đổi mới công nghệ và chuyển đổi số trong việc phát triển kinh tế nhanh chóng và bền vững ở Việt Nam cho đến nay. Những đánh giá hiện nay, nếu có, thường chỉ là các mục tiêu lượng hóa tác động của chuyển đổi số, kiểu như kinh tế số sẽ chiếm bao nhiêu phần trăm trong GDP vào năm nào đó trong tương lai, sẽ có bao nhiêu tỉnh thành áp dụng chính phủ điện tử, chính phủ số...

Tuy công cuộc chuyển đổi số đang được tích cực vận động áp dụng và đẩy mạnh ở nước ta nhưng trong một số ngành, lĩnh vực, kể cả khu vực công - là khu vực đóng vai trò, dẫn dắt, đi đầu trong chuyển đổi số nhờ vai trò và tiềm lực tài chính, công nghệ của nó so với các khu vực và các chủ thể kinh tế khác - vẫn còn đây đó những nốt trầm.

Một ví dụ mới gần đây minh họa rõ nét tình trạng tụt hậu của khu vực công trong chuyển đổi số là việc thu thập thông tin phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của Công an TP. Hồ Chí Minh (HCM) được tiến hành theo kiểu thủ công, thông qua việc điền thông tin, kèm bản photo giấy đăng ký xe. Tạp chí Kinh tế Sài Gòn đã có bài viết chỉ ra sự “kỳ kỳ” của cách làm thủ công này và đặt câu hỏi tại sao Công an TP. HCM không tận dụng các hệ thống công nghệ có sẵn? Điều này xảy ra bất chấp Chính phủ lẫn chính quyền TP. HCM đã đầu tư rất nhiều tiền của, công sức để xây dựng các hệ thống công nghệ để quản lý nhiều lĩnh vực trong xu hướng xây dựng chính phủ điện tử, chính quyền điện tử (https://thesaigontimes.vn/co-it-nhat-mot-cach-thu-thap-du-lieu-tot-hon-la-phat-phieu-ghi-tay/).

Trước đây thì có những ví dụ điển hình khác về vấn đề khoảng cách giữa chủ trương và thực hiện, chẳng hạn như việc phát triển và sử dụng các ứng dụng/app khai báo liên quan đến COVID-19. Đã có nhiều app như vậy được đưa ra áp dụng nhưng hiệu quả, liên thông dữ liệu tại thời điểm dịch bệnh như thế nào thì chúng ta đều đã rõ.

Như vậy, ít hay nhiều vẫn còn một khoảng cách từ chủ trương, chính sách đến thực hiện trong công cuộc chuyển đổi số, nhất là ở những lĩnh vực, bộ phận mà việc số hóa hiển nhiên phải đi đầu ở Việt Nam trong các năm qua. Bởi vậy, vấn đề với chuyển đổi số ở Việt Nam có lẽ không phải, không còn là liệu nó sẽ có tác động như thế nào (tích cực hay tiêu cực), ở mức độ nào lên tăng trưởng kinh tế của chúng ta trong năm tới và những năm sau đó, mà là chúng ta liệu có tiến hành chuyển đổi số, ứng dụng các công nghệ và giải pháp mới, thông minh một cách sâu rộng, nhất quán và hợp lý được hay không.

Vậy chúng ta cần làm gì để đẩy nhanh chuyển đổi số?

TS. Phan Minh Ngọc: Như trên đã nói, ngay khu vực công cũng đã chưa thể hiện tốt vai trò định hướng, dẫn dắt, và đi đầu trong công cuộc chuyển đổi số của Việt Nam. Trong khi đó, hầu như là một ý niệm chung rằng chuyển đổi số là cần thiết và mang lại lợi ích thiết thực cho khu vực doanh nghiệp, và, do đó, sự chú ý của dư luận cũng như của các cơ quan hoạch định chính sách cũng chỉ tập trung vào khu vực này. Đây là một sai lầm phổ biến, cần khắc phục ngay. Điều quan trọng không kém là chuyển đổi số trong khu vực công phải được đẩy mạnh, diễn ra triệt để để ít nhất không kéo tụt sự tiến bộ trong chuyển đổi số ở khu vực tư, chưa nói đến việc dẫn dắt, đi đầu của nó.

Ngay trong việc chuyển đổi số ở cấp doanh nghiệp, mặc dù được Nhà nước vận động, khuyến khích áp dụng nhưng vai trò của Nhà nước vẫn chưa rõ nét, theo phản ánh của giới doanh nghiệp.

Khi thực hiện chuyển đổi số, doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn và trở ngại như thiếu nhân lực và kinh nghiệm về ứng dụng, khai thác công nghệ; cần kinh phí lớn để đầu tư vào các dự án chuyển đổi số trong khi năng lực tài chính của doanh nghiệp có hạn; chưa có cơ quan, tổ chức tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp hoạch định, đánh giá, lựa chọn, và xử lý các vấn đề trục trặc liên quan đến các giải pháp ứng dụng số hóa phù hợp với đặc thù của từng doanh nghiệp...  

Tất nhiên, nếu để “bàn tay thị trường” phát huy tác dụng trong việc buộc các doanh nghiệp phải tự “bơi”, tự chuyển đổi số để tiếp tục tồn tại và phát triển thì cũng sẽ có nhiều doanh nghiệp vượt qua được những trở ngại, khó khăn này ở một cấp độ nào đó. Đổi lại, sẽ có nhiều doanh nghiệp, ngành và lĩnh vực bị tụt hậu, không thể theo kịp, tạo ra một nền kinh tế, xã hội phân tầng, ốm yếu.

Để khắc phục tình trạng này cần có sự điều tiết, hỗ trợ của Nhà nước, đóng vai trò bà đỡ cho chuyển đổi số trên quy mô quốc gia, giúp doanh nghiệp đối phó một cách hữu hiệu các trở ngại và khó khăn nêu trên.

Trân trọng cảm ơn ông!

(Thực hiện: Lê Hưng)

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).