Saturday, 5 April 2025

Lỗi sơ đẳng trong đàm phán thương mại của Việt

Hôm nay xuất hiện thêm một số tin tức đáng chú ý từ Việt Nam, liên quan đến thuế mới của đồng chí Trump dành cho Việt Nam thương mến. Đáng nói nhất là tin từ Bộ Công thương cho biết sự "đáng tiếc" với mức thuế mới này (đương nhiên!), đồng thời biện hộ rằng thì là mà, nào là hàng của Việt Nam không cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp/hàng Mỹ, thậm chí lại có lợi cho Mỹ (ơ hay, ào ạt vào nhiều quá, với giá rẻ quá - chẳng hạn vì phá giá, vì để hàng Tầu đội lốt... thì doanh nghiệp nào, hàng nào của Mỹ còn trụ lại được?). 

Nhưng dẫu sao thì cái rằng thì là mà này vẫn chưa là gì so với cái lỗi sơ đẳng mà bộ này mắc phải. Đó là khi họ nói: "Mức thuế MFN trung bình mà Việt Nam áp đối với hàng hóa nhập khẩu hiện nay là 9,4%. Do đó, mức thuế đối ứng mà Mỹ dự kiến áp cho hàng hóa Việt Nam lên tới 46% là thiếu căn cứ khoa học và thực sự không công bằng, không phản ánh thiện chí và nỗ lực của Việt Nam trong suốt thời gian vừa qua trong việc xử lý tình trạng thâm hụt thương mại giữa hai nước".

Về con số 90% là mức thuế mà phía Mỹ đưa ra cáo buộc Việt Nam đánh lên hàng nhập khẩu từ Mỹ, đây là kết quả của việc rút gọn lại công thức tính toán ra nó của phía Mỹ, trở thành nhập khẩu ròng vào Mỹ chia cho tổng nhập khẩu vào Mỹ từ Việt Nam, nghe có vẻ gì đó sai sai hoặc rất sai, nhưng đây chỉ là sự tình cờ. Vì công thức nguyên bản tính thuế đối ứng của Mỹ còn có các biến số khác, như công thức dưới đây 

Thay đổi mức thuế nhập khẩu cho nước X = (xuất khẩu của Mỹ sang X - nhập khẩu từ X vào Mỹ)/(Epsilon * Phi * Tổng nhập khẩu từ X vào Mỹ) 

Theo đó, Epsilon, biểu thị cho độ co giãn theo giá của nhập khẩu mà Mỹ đặt ở mức 4, và Phi, được sử dụng để biểu thị độ co giãn của giá nhập khẩu đối với thuế quan và được phía Mỹ đặt ở mức 0,25. Vì Epsilon nhân với Phi (4*0.225) thì thành 1, và vô tình biến công thức tính thuế đối ứng của Mỹ cho nước X thành tỷ lệ nhập khẩu ròng vào Mỹ từ X trên tổng nhập khẩu từ X vào Mỹ, để rồi biến nó thành trò cười trong con mắt của nhiều người kể cả có trình độ.

Do không hiểu đúng cách tính toán của Mỹ, Bộ Công thương khơi khơi "phát hiện" ra rằng Mỹ tính sai, mang tính áp đặt đầy bất công với lý do là Việt Nam chỉ áp mức thuế MFN trung bình là 9,4%, chứ lấy đâu ra đến 90%. (Thú nhận là tớ ban đầu đọc sơ mấy bản tin Việt, Anh có trích dẫn cách tính rút gọn này cũng thấy ơ ơ, chỉ đến lúc ngồi viết bài này và bắt đầu tìm đọc kỹ hơn thì mới phát hiện ra bản chất của nó).

Sai sót như thế thì thôi cũng không thể trách cứ quá được, vì ngay cả... tớ lúc đầu cũng sai mà (nhưng nói thế thôi nhé, vì tớ chỉ là kẻ ngoài cuộc, còn Bộ Công thương ăn lương là để chịu trách nhiệm cho những việc như thế này, không được phép sai sót). Cái mà Bộ Công thương đáng trách hơn nữa là thái độ phản ứng như nói ở trên. Nếu ban đầu đã (sai lầm) cho rằng Mỹ đưa ra mức thuế trên là vô cớ, mang tính áp đặt thì phải hiểu rằng thực sự Mỹ đang có thái độ nước lớn, áp đặt cho không chỉ riêng với Việt Nam, và cuộc chơi này thuộc về Mỹ, do Mỹ cầm chịch, muốn chủ ý đặt thuế ở mức bao nhiêu tùy thích, công thức và cách tính chỉ là hình thức cho có, các đối thủ chơi được sát máu thì chơi, e thấy không được thì hãy quay sang mà năn nỉ, xoa dịu như một số nước khôn ngoan khác mới mong bớt thiệ hại. Đằng này lại có thái độ này nọ, đưa ra con số này kia rồi lý luận lọ chai (mà lại sai bét như nói ở đoạn đầu).

Tóm lại, như đã nói ở bài trước, đi thương thuyết mà vẫn ấu trĩ, trình độ yếu kém nhưng lại đầy hoang tưởng về sức mạnh và quyền lực (mềm) thì kết quả sẽ khó mà khả quan được.  





No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).